NGHE CÁC ĐÀI PHÁT THANH
RFA/Vietnamese - RFI/Vietnamese - BBC/Vietnamese - VOA/Vietnamese - Little Saigon TV - VNI TV - Sagon TV - SBTN
KẺ ĐÊ TIỆN (THE VILLAIN)
By Roger Lowenstein - Đình Ngân dịch
Webmaster - đăng lúc 04:38:12 PM, Apr 08, 2012
Cục Dự trữ liên bang Mỹ được thành lập cách đây 99 năm, như một bức tường thành bảo vệ hệ thống ngân hàng và thứ thuốc giải cho những nỗi sợ hãi cứ thi thoảng lại xuất hiện. Nói đúng ra, đó là nỗ lực thứ ba của Mỹ trong việc thành lập một ngân hàng trung ương. Ngân hàng đầu tiên, do Quốc hội đứng ra tổ chức vào năm 1791, theo quy định sẽ hết hiệu lực trong vòng 20 năm, đã để lại cho đất nước cộng hòa non trẻ với một hệ thống chắp vá các ngân hàng nhà nước yếu kém. Trong cuộc chiến tranh năm 1812, Quốc hội nhận ra sai lầm của mình (rằng không có ngân hàng trung ương, lạm phát sẽ không thể kiểm soát), và năm 1816, cơ quan này lại lập một ngân hàng thứ hai cũng sẽ chỉ được phép tồn tại trong 20 năm {có tên gọi là "First Bank of the United States" (học theo mô hình ngân hàng Anh quốc)}. Ngân hàng Hoa Kỳ Thứ hai (Second Bank of the United States) về cơ bản là một thành công. Giấy bạc của ngân hàng này được lưu thông như tiền tệ, và nó khéo léo quản lý nguồn cung tiền để duy trì hoạt động mạnh mẽ của nền kinh tế. Tuy nhiên, tổng thống Andrew Jackson, người phản đối quyết liệt cả việc dùng tiền giấy và các ngân hàng quốc gia, đã vận động phản đối gia hạn hiến chương này vào năm 1832, và gián tiếp chống lại vị chủ tịch đầy thông minh những cũng rất bốc đồng của ngân hàng, Nicholas Biddle. Khi sự bức xúc đối với các nhà tài phiệt lên đến đỉnh điểm, cuộc bầu cử trở thành cuộc trưng cầu dân ý về người chủ ngân hàng Philadelphia lịch thiệp với vị chiến binh anh hùng vụng táo tợn - và về chính bản thân ngân hàng này. Jackson giành chiến thắng, và Ngân hàng. Thứ hai, đúng như lời hứa của ông, đã bị giải tán. Nền kinh tế Mỹ ngay lập tức rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Biddle mất sau đó không lâu, và dù thất thế, nhưng cuộc đấu tranh giữa giới chủ ngân hàng với những người dân túy không bao giờ biến mất.
Chân dung Ben Shalom Bernanke
Thời gian gần đây, Biddle nếu còn sống hẳn cũng sẽ không bất ngờ với những lời công kích dành cho Ben Bernanke, và người ta sẽ đặt câu hỏi liệu Fed có được cử chi ủng hộ nhiều hơn Ngân hàng Thứ hai trong thế kỷ 19 hay không. Bản thân Bernanke chắc chắn cũng sẽ khó chiến thắng trong cuộc đua giành sự ủng hộ của người dân. Năm 2010, bốn năm sau khi được tổng thống George W. Bush bổ nhiệm làm người đứng đầu Cục dự trữ, ông đã được Thượng viện chấp thuận làm nhiệm kỳ thứ hai, với số phiếu 70/30 - chênh lệch nhỏ nhất đối với một một chủ tịch Cục dự trữ liên bang từ trước đến nay. (Năm 2010, Alan Greenspan giữ nhiệm kỳ thứ tư với số phiếu 89/4). Rắc rối của Bernanke với các chính trị gia là hệ quả trực tiếp của việc ông mất điểm trong các cuộc bỏ phiếu, và từ khi được tái bổ nhiệm, những con số này thậm chí còn đang thêm phần xấu hơn. Trong một cuộc thăm dò ý kiến của Bloomberg tháng 9 năm 2011, chỉ 29% người được hỏi thể hiện quan điểm ủng hộ Bernanke; 35% có quan điểm không ủng hộ. Tháng 10, chỉ 40% những người tham gia khảo sát của Gallup cho biết họ tin tưởng các sáng kiến của Bernanke sẽ tạo ra việc làm; ngay cả các nhà lãnh đạo trong Quốc hội còn tạo được sự tin tưởng lớn hơn thế.
Hơn 4 năm rưỡi qua, ông Bernanke, 58 tuổi, làm chủ tịch trong một giai đoạn khủng hoảng duy trì liên tục nhất so với bất cứ vị công chức nào trong thời gian gần đây, với số mệnh của hàng triệu người thất nghiệp và bán thất nghiệp đang bị treo lơ lửng. Chỉ mới gần đây, nền kinh tế mới bắt đầu có dấu hiệu cho thấy phục hồi có sức sống. Từ tháng 8/2007, Bernanke đã triển khai Fed như một nhà cho vay cuối cùng cho hệ thống ngân hàng và làm việc cật lực để cung cấp một "đồng tiền co giãn" (theo nhu cầu) - nghĩa là luôn giữ đủ tiền trong lưu thông để nền kinh tế hoạt động tốt. Đây chính là những nhiệm vụ mà các nhà sáng lập Fed nhắm tới. Bernanke đã thực hiện bằng cách tăng gấp ba lần quy mô bảng quyết toán của Fed - lên con số ngất ngưởng 2,9 nghìn tỷ USD - và bằng cách sáng tạo ra một loạt các chương trình cho vay mới tới các ngân hàng và các tổ chức tư nhân khác. Trong phần lớn lịch sử tồn tại của Fed, công luận - nhìn chung không muốn kinh tế đình trệ - thường đồng tình với những nỗ lực như vậy, nhưng hiện tại, phẫn nộ đối với chính phủ và ngân hàng, dân chúng không khỏi hoài nghi về Bernanke. Tháng 11/2010, Ron Paul đã gãi đúng chỗ ngứa khi ông đặt câu hỏi bằng cách nào Fed có thể tạo ra 600 tỷ USD trong khoảng thời gian gấp gáp như vậy. Michele Bachmann cũng vậy, quay Bernanke như chong chóng trong một phiên điều trần trước Quốc hội vài tháng trước, sau sự cố chương trình, khi bà hỏi "Ông có biết giới hạn thẩm quyền nào mà Cục dự trữ Liên bang đã vượt quá kể từ tháng 3/2008 hay không?"
Hơn 4 năm rưỡi qua, ông Bernanke, 58 tuổi, làm chủ tịch trong một giai đoạn khủng hoảng duy trì liên tục nhất so với bất cứ vị công chức nào trong thời gian gần đây, với số mệnh của hàng triệu người thất nghiệp và bán thất nghiệp đang bị treo lơ lửng. Chỉ mới gần đây, nền kinh tế mới bắt đầu có dấu hiệu cho thấy phục hồi có sức sống. Từ tháng 8/2007, Bernanke đã triển khai Fed như một nhà cho vay cuối cùng cho hệ thống ngân hàng và làm việc cật lực để cung cấp một "đồng tiền co giãn" (theo nhu cầu) - nghĩa là luôn giữ đủ tiền trong lưu thông để nền kinh tế hoạt động tốt. Đây chính là những nhiệm vụ mà các nhà sáng lập Fed nhắm tới. Bernanke đã thực hiện bằng cách tăng gấp ba lần quy mô bảng quyết toán của Fed - lên con số ngất ngưởng 2,9 nghìn tỷ USD - và bằng cách sáng tạo ra một loạt các chương trình cho vay mới tới các ngân hàng và các tổ chức tư nhân khác. Trong phần lớn lịch sử tồn tại của Fed, công luận - nhìn chung không muốn kinh tế đình trệ - thường đồng tình với những nỗ lực như vậy, nhưng hiện tại, phẫn nộ đối với chính phủ và ngân hàng, dân chúng không khỏi hoài nghi về Bernanke. Tháng 11/2010, Ron Paul đã gãi đúng chỗ ngứa khi ông đặt câu hỏi bằng cách nào Fed có thể tạo ra 600 tỷ USD trong khoảng thời gian gấp gáp như vậy. Michele Bachmann cũng vậy, quay Bernanke như chong chóng trong một phiên điều trần trước Quốc hội vài tháng trước, sau sự cố chương trình, khi bà hỏi "Ông có biết giới hạn thẩm quyền nào mà Cục dự trữ Liên bang đã vượt quá kể từ tháng 3/2008 hay không?"
Các chương trình độc đáo của Bernanke được triển khai trong hai giai đoạn. Trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009, ông đã giải cứu một số ngân hàng lớn, triển khai một loạt các hoạt động cho vay đầy sáng tạo để giải ngân tín dụng cho các ngân hàng, doanh nghiệp nhỏ, và người tiêu dùng (gần như toàn bộ các khoản cho vay này đã được hoàn lại, làm lợi cho người đóng thuế). Ông cũng hạ lãi suất xuống gần bằng không và yêu cầu các ngân hàng tư nhân tiến hành một loạt các stress test để đảm bảo mức độ khả năng thanh toán tối thiểu. Mặc dù còn nhiều phản đối gay gắt đối với các gói cứu trợ, nhưng không thể phủ nhận giai đoạn đầu tiên này chính là một thành công. Có thể cuộc giải cứu còn chưa được điều hành đâu ra đấy, nhưng giai đoạn khủng hoảng tài chính cho tới hiện tại đã kết thúc rồi. (Stress test là các tính toán giả định tình hình sức khỏe của các ngân hàng với một số tình huống giả định khác nhau về điều kiện kinh tế và thị trường. Mục tiêu của việc thực hiện stress test là giúp cho các nhà hoạch định chính sách tiền tệ có thông tin đầy đủ về hệ thống ngân hàng, nhất là tình hình vốn và và tính thanh khoản nếu khủng hoảng tiếp tục kéo dài hay những tác động mạnh từ thị trường tài chính xảy ra. Nhưng có lẽ đóng góp quan trọng nhất của stress test là qua bản kết quả, cho thị trường thấy các ngân hàng không đến nỗi nguy ngập như mọi người nghĩ, nhờ vậy khôi phục lại niềm tin của các nhà đầu tư).
Trong giai đoạn thứ hai, Bernanke đã cố gắng vực dậy một nền kinh tế yếu bằng cách tiếp tục duy trì lãi suất thấp gần bằng không (zero, 0), và mua lại khối lượng lớn trái phiếu kho bạc dài hạn và chứng khoán thế chấp. Giai đoạn thứ hai này có lẽ gây tranh cãi hơn giai đoạn thứ nhất. Thành công của nó khó đo lường hơn (chúng ta không có cách nào biết được liệu sự phục hồi của nền kinh tế sẽ kém mạnh mẽ hơn và sút kém đi bao nhiêu nếu không có những nỗ lực của Bernanke). Và nó khiến Bernanke phải nhận lấy những lời buộc tội là đã gây ra những rắc rối quá nghiêm trọng trong khu vực tư nhân, làm rối loạn nhịp độ tự nhiên của nền kinh tế đã qua thời điểm còn cần thiết những can thiệp như vậy. Đặc biệt, giới phê bình còn chỉ trích Fed đã nhồi vào hệ thống ngân hàng 1,5 nghìn tỷ dự trữ thặng dư (excess reserves - số tiền dự trữ đã nộp (actual reserves) trừ tỉ lệ dự trữ bắt buộc (required reserves)) - số tiền mà các ngân hàng hiện không sử dụng, nhu cầu cho vay khiêm tốn, nhưng cũng có thể một ngày nào đó sẽ làm bùng phát đại dịch lạm phát.
Michael Bordo, một sử gia tiền tệ tại Đại học Rutgers, New Jersey, nói với tôi rằng trong giai đoạn thứ hai, "Bernanke đã chuyển sang những lĩnh vực hoàn toàn không liên quan đến những gì các nhà sáng lập luôn tâm niệm. Một trong những rủi ro mà Fed đang phải đối mặt là họ đã đi quá xa". Những chỉ trích tương tự cũng đã xuất hiện, ít dè dặt hơn, trong quá trình vận động tranh cử tổng thống. Hồi tháng 8, Thống đốc bang Texas Rick Perry phát biểu, Bernanke, người đã lèo lái nền kinh tế ra khỏi vũng bùn tồi tệ nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái, là "người gần như không thể tin cậy - hay theo quan điểm của tôi là kẻ mưu phản". Ông cũng từng đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, "Nếu gã này in thêm tiền trong thời gian từ nay đến bầu cử, tôi không biết người ta sẽ làm gì với ông ở Iowa, nhưng chúng tôi sẽ khó đối xử tốt với ông ở Texas". Đa số các ứng cử viên Cộng hòa (GOP) khác đều cố gắng tấn công vào Bernanke theo cách để không thể hiện ra là họ đang tạo ra một sự phân biệt đối xử với ông. Newt Gingrich gọi Bernanke là chủ tịch Fed "lạm phát và nguy hiểm nhất" trong lịch sử - một tuyên bố rất đáng lưu ý bởi trong suốt nhiệm kỳ của Bernanke, lạm phát tính theo Chỉ số giá tiêu dùng đạt bình quân thấp hơn 2,4% so với của bất kỳ người đứng đầu Fed nào khác kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Mitt Romney, người trước đó từng ca ngợi Bernanke vì những gì ông đã làm được, hồi tháng 9 cũng hứa, nếu đắc cử, ông sẽ thay thế Bernanke. Harman Cain cũng vậy. (Nhiệm kỳ của Bernanke kết thúc vào năm 2014). Paul Raul, người chủ trương trở lại bản vị vàng, hồi tháng 11 cũng gọi Fed, với quyết định từ bỏ chế độ bản vị vàng từ năm 1971, là "vô đạo đức". Tháng Giêng, phần nhờ thái độ chống đối của ông đối với Fed, Paul đã về đích ở vị trí thứ ba trong cuộc họp kín của ban lãnh đạo để chọn người ra ứng cử ở Iowa và thứ hai trong cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hamsphire.
Dù Bernanke là một đảng viên Cộng hòa, nhưng các Nghị sĩ Cộng hòa trong Quốc hội vẫn liên tục duy trì một cuộc chiến chống lại ông, đe dọa kiểm toán lại các động thái lãi suất của Fed; cáo buộc Bernanke che đậy thông tin; từ chối bổ sung hai vị trí trống trong ban thống đốc gồm 7 người của Fed, cơ quan mà Bernanke làm chỉ tịch; và phản đối bản tóm tắt chính sách của ông về cải cách hoạt động thế chấp. Tháng 9 năm goái, khi Bernanke đang lên kế hoạch phát động chiến dịch mới nhất nhằm kích thích kinh tế, còn được gọi là Chiến dịch Twist, lãnh đạo đảng Cộng hòa và Thượng viện đều công khai kêu gọi ông nên ngừng lại - một nỗ lực hiếm thấy của Quốc hội khi can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền tệ. Bernanke đã thách thức họ.
Chủ nghĩa dân túy phản Fed không chỉ giới hạn trong các "bang đỏ" vốn là căn cứ địa của đảng Cộng hòa. Lái xe qua gần nhà tôi ở vùng ngoại ô Boston - không hoàn toàn là lãnh địa của Đảng Trà - tôi thấy trên cái hãm xung một chiếc xe hơi màu xanh Celtic có dán dòng chữ mang tựa đề cuốn sách bán chạy của Ron Paul End the Fed (Hãy chấm dứt Fed). Thực tế, Bernanke đang ở tâm điểm cuộc tranh luận giữa cánh tả và cánh hữu về việc ông có đang quá đà hay thiếu lực trong việc kích thích kinh tế. Tất cả những điều này, bên cạnh các rắc rối về nợ ở châu Âu, đã đe dọa làm phức tạp thêm vấn đề của Mỹ và dập tắt sự phục hồi khi nó còn chưa kịp tạo đà vững chắc.
Tâm điểm của cuộc tranh luận một mặt xoay quanh các rủi ro và chi phí của lạm phát, mặt khác là về tốc độ và tính ổn định của sự phục hồi. Tháng 11/2010, khi Fed bắt đầu giai đoạn thứ hai là "nới lỏng định lượng" - bao gồm 600 tỷ USD trái phiếu Kho bạc dài hạn - Kevin Warsh, thành viên ban thống đốc Fed và một đồng nghiệp thân thiết của Bernanke, đã viết một bài bình luận trên tờ Wall Street Journal, đặt câu hỏi về chiến dịch và cho rằng Bernanke có lẽ đã hơi quá đà. (Vài tháng sau, Warsh từ chức). Ngay cả các ngân hàng trung ương nước ngoài - thường là giới ngoại giao - cũng lên tiếng, tấn công Bernanke vì cho rằng ông đã cố tình làm cho đồng đôla Mỹ xuống giá và tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu của nước này; Bộ trưởng Tài chính Đức đã gọi chính sách của vị chủ tịch Fed là "ngớ ngẩn". Sau đó chiến lược này còn bị lên án trong một bức thư công khai được phát tán rộng rãi gửi tới Bernanke, có chữ ký của 23 chuyên gia tài chính thiên hướng Cộng hòa. Bức thư, yêu cầu dừng ngay chương trình, và tuyên bố "chúng tôi không đồng tình với quan điểm lạm phát cần phải được đẩy cao hơn nữa".
Ở thời điểm đó, lạm phát đang có xu hướng xuống tới 1%, thậm chí còn có người lo ngại xuống ngưỡng âm, hay còn gọi là giảm phát. Một lý do Đại Suy thoái duy trì trong thời gian dài như vậy là giá cả liên tục giảm qua từng năm. Mục tiêu chính trong chương trình mới của Bernanke là đẩy lùi giảm phát, và cuối cùng đã đạt được. Nhưng thành công này vẫn chưa hề đủ làm vừa lòng những người cánh tả chỉ trích Bernanke - những người đã không ngừng yêu cầu người đứng đầu của Fed khôi phục lại mức lạm phát (trong chừng mực nào đó) mà chính những người phe cánh hữu cảm thấy không an tâm.
Paul Krugman, chủ bút của tờ New York Time và nhà kinh tế học từng đạt giải thưởng Nobel, đã phê bình gay gắt Bernanke vì kiềm chế bản năng "bồ câu" tự nhiên của ông. (Theo cách nói của Fed, phe "diều hâu" (hawk) muốn thắt chặt chính sách để ngăn chặn lạm phát; "bồ câu" (doves) muốn nới lỏng để tăng cung). Trên blog cá nhân, Krugman chê bai Fed dưới thời Bernanke - ông chủ Fed năng động nhất trong lịch sử - là đã thể hiện những sự thụ động "đáng xấu hổ", và liệt cương vị quản lý Fed của ông vào "Hồ sơ những kẻ nhút nhát ở Fed". Cần lưu ý rằng sự nghiệp học thuật của Krugman thăng hoa khi Bernanke, trước sự phản đối của một số thành viên khoa, vẫn tuyển ông vào làm việc tại Princeton, khi Bernanke là trưởng khoa kinh tế học. Có lẽ, sự can đảm của Bernanke đã từ đó rời khỏi ông; "Bernanke trở nên yếu đuối hơn", Krugman tuyên bố trên một bài blog hồi tháng 4/2011. Cây bút này viết, Bernanke chắc chắn đồng quan điểm với các ý tưởng chính sách của ông, nhưng đã bị "dọa nạt" bởi "những kẻ chủ trương lạm phát".
Trong giai đoạn thứ hai, Bernanke đã cố gắng vực dậy một nền kinh tế yếu bằng cách tiếp tục duy trì lãi suất thấp gần bằng không (zero, 0), và mua lại khối lượng lớn trái phiếu kho bạc dài hạn và chứng khoán thế chấp. Giai đoạn thứ hai này có lẽ gây tranh cãi hơn giai đoạn thứ nhất. Thành công của nó khó đo lường hơn (chúng ta không có cách nào biết được liệu sự phục hồi của nền kinh tế sẽ kém mạnh mẽ hơn và sút kém đi bao nhiêu nếu không có những nỗ lực của Bernanke). Và nó khiến Bernanke phải nhận lấy những lời buộc tội là đã gây ra những rắc rối quá nghiêm trọng trong khu vực tư nhân, làm rối loạn nhịp độ tự nhiên của nền kinh tế đã qua thời điểm còn cần thiết những can thiệp như vậy. Đặc biệt, giới phê bình còn chỉ trích Fed đã nhồi vào hệ thống ngân hàng 1,5 nghìn tỷ dự trữ thặng dư (excess reserves - số tiền dự trữ đã nộp (actual reserves) trừ tỉ lệ dự trữ bắt buộc (required reserves)) - số tiền mà các ngân hàng hiện không sử dụng, nhu cầu cho vay khiêm tốn, nhưng cũng có thể một ngày nào đó sẽ làm bùng phát đại dịch lạm phát.
Michael Bordo, một sử gia tiền tệ tại Đại học Rutgers, New Jersey, nói với tôi rằng trong giai đoạn thứ hai, "Bernanke đã chuyển sang những lĩnh vực hoàn toàn không liên quan đến những gì các nhà sáng lập luôn tâm niệm. Một trong những rủi ro mà Fed đang phải đối mặt là họ đã đi quá xa". Những chỉ trích tương tự cũng đã xuất hiện, ít dè dặt hơn, trong quá trình vận động tranh cử tổng thống. Hồi tháng 8, Thống đốc bang Texas Rick Perry phát biểu, Bernanke, người đã lèo lái nền kinh tế ra khỏi vũng bùn tồi tệ nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái, là "người gần như không thể tin cậy - hay theo quan điểm của tôi là kẻ mưu phản". Ông cũng từng đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, "Nếu gã này in thêm tiền trong thời gian từ nay đến bầu cử, tôi không biết người ta sẽ làm gì với ông ở Iowa, nhưng chúng tôi sẽ khó đối xử tốt với ông ở Texas". Đa số các ứng cử viên Cộng hòa (GOP) khác đều cố gắng tấn công vào Bernanke theo cách để không thể hiện ra là họ đang tạo ra một sự phân biệt đối xử với ông. Newt Gingrich gọi Bernanke là chủ tịch Fed "lạm phát và nguy hiểm nhất" trong lịch sử - một tuyên bố rất đáng lưu ý bởi trong suốt nhiệm kỳ của Bernanke, lạm phát tính theo Chỉ số giá tiêu dùng đạt bình quân thấp hơn 2,4% so với của bất kỳ người đứng đầu Fed nào khác kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Mitt Romney, người trước đó từng ca ngợi Bernanke vì những gì ông đã làm được, hồi tháng 9 cũng hứa, nếu đắc cử, ông sẽ thay thế Bernanke. Harman Cain cũng vậy. (Nhiệm kỳ của Bernanke kết thúc vào năm 2014). Paul Raul, người chủ trương trở lại bản vị vàng, hồi tháng 11 cũng gọi Fed, với quyết định từ bỏ chế độ bản vị vàng từ năm 1971, là "vô đạo đức". Tháng Giêng, phần nhờ thái độ chống đối của ông đối với Fed, Paul đã về đích ở vị trí thứ ba trong cuộc họp kín của ban lãnh đạo để chọn người ra ứng cử ở Iowa và thứ hai trong cuộc bầu cử sơ bộ ở New Hamsphire.
Dù Bernanke là một đảng viên Cộng hòa, nhưng các Nghị sĩ Cộng hòa trong Quốc hội vẫn liên tục duy trì một cuộc chiến chống lại ông, đe dọa kiểm toán lại các động thái lãi suất của Fed; cáo buộc Bernanke che đậy thông tin; từ chối bổ sung hai vị trí trống trong ban thống đốc gồm 7 người của Fed, cơ quan mà Bernanke làm chỉ tịch; và phản đối bản tóm tắt chính sách của ông về cải cách hoạt động thế chấp. Tháng 9 năm goái, khi Bernanke đang lên kế hoạch phát động chiến dịch mới nhất nhằm kích thích kinh tế, còn được gọi là Chiến dịch Twist, lãnh đạo đảng Cộng hòa và Thượng viện đều công khai kêu gọi ông nên ngừng lại - một nỗ lực hiếm thấy của Quốc hội khi can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền tệ. Bernanke đã thách thức họ.
Chủ nghĩa dân túy phản Fed không chỉ giới hạn trong các "bang đỏ" vốn là căn cứ địa của đảng Cộng hòa. Lái xe qua gần nhà tôi ở vùng ngoại ô Boston - không hoàn toàn là lãnh địa của Đảng Trà - tôi thấy trên cái hãm xung một chiếc xe hơi màu xanh Celtic có dán dòng chữ mang tựa đề cuốn sách bán chạy của Ron Paul End the Fed (Hãy chấm dứt Fed). Thực tế, Bernanke đang ở tâm điểm cuộc tranh luận giữa cánh tả và cánh hữu về việc ông có đang quá đà hay thiếu lực trong việc kích thích kinh tế. Tất cả những điều này, bên cạnh các rắc rối về nợ ở châu Âu, đã đe dọa làm phức tạp thêm vấn đề của Mỹ và dập tắt sự phục hồi khi nó còn chưa kịp tạo đà vững chắc.
Tâm điểm của cuộc tranh luận một mặt xoay quanh các rủi ro và chi phí của lạm phát, mặt khác là về tốc độ và tính ổn định của sự phục hồi. Tháng 11/2010, khi Fed bắt đầu giai đoạn thứ hai là "nới lỏng định lượng" - bao gồm 600 tỷ USD trái phiếu Kho bạc dài hạn - Kevin Warsh, thành viên ban thống đốc Fed và một đồng nghiệp thân thiết của Bernanke, đã viết một bài bình luận trên tờ Wall Street Journal, đặt câu hỏi về chiến dịch và cho rằng Bernanke có lẽ đã hơi quá đà. (Vài tháng sau, Warsh từ chức). Ngay cả các ngân hàng trung ương nước ngoài - thường là giới ngoại giao - cũng lên tiếng, tấn công Bernanke vì cho rằng ông đã cố tình làm cho đồng đôla Mỹ xuống giá và tạo lợi thế cho hàng xuất khẩu của nước này; Bộ trưởng Tài chính Đức đã gọi chính sách của vị chủ tịch Fed là "ngớ ngẩn". Sau đó chiến lược này còn bị lên án trong một bức thư công khai được phát tán rộng rãi gửi tới Bernanke, có chữ ký của 23 chuyên gia tài chính thiên hướng Cộng hòa. Bức thư, yêu cầu dừng ngay chương trình, và tuyên bố "chúng tôi không đồng tình với quan điểm lạm phát cần phải được đẩy cao hơn nữa".
Ở thời điểm đó, lạm phát đang có xu hướng xuống tới 1%, thậm chí còn có người lo ngại xuống ngưỡng âm, hay còn gọi là giảm phát. Một lý do Đại Suy thoái duy trì trong thời gian dài như vậy là giá cả liên tục giảm qua từng năm. Mục tiêu chính trong chương trình mới của Bernanke là đẩy lùi giảm phát, và cuối cùng đã đạt được. Nhưng thành công này vẫn chưa hề đủ làm vừa lòng những người cánh tả chỉ trích Bernanke - những người đã không ngừng yêu cầu người đứng đầu của Fed khôi phục lại mức lạm phát (trong chừng mực nào đó) mà chính những người phe cánh hữu cảm thấy không an tâm.
Paul Krugman, chủ bút của tờ New York Time và nhà kinh tế học từng đạt giải thưởng Nobel, đã phê bình gay gắt Bernanke vì kiềm chế bản năng "bồ câu" tự nhiên của ông. (Theo cách nói của Fed, phe "diều hâu" (hawk) muốn thắt chặt chính sách để ngăn chặn lạm phát; "bồ câu" (doves) muốn nới lỏng để tăng cung). Trên blog cá nhân, Krugman chê bai Fed dưới thời Bernanke - ông chủ Fed năng động nhất trong lịch sử - là đã thể hiện những sự thụ động "đáng xấu hổ", và liệt cương vị quản lý Fed của ông vào "Hồ sơ những kẻ nhút nhát ở Fed". Cần lưu ý rằng sự nghiệp học thuật của Krugman thăng hoa khi Bernanke, trước sự phản đối của một số thành viên khoa, vẫn tuyển ông vào làm việc tại Princeton, khi Bernanke là trưởng khoa kinh tế học. Có lẽ, sự can đảm của Bernanke đã từ đó rời khỏi ông; "Bernanke trở nên yếu đuối hơn", Krugman tuyên bố trên một bài blog hồi tháng 4/2011. Cây bút này viết, Bernanke chắc chắn đồng quan điểm với các ý tưởng chính sách của ông, nhưng đã bị "dọa nạt" bởi "những kẻ chủ trương lạm phát".
Tôi gặp Bernanke hôm thứ ba sau Lễ phục sinh - một ngày sau khi ông hoàn thành chương trình cho vay "hoán đổi" đặc biệt cho châu Âu, khi Lục địa già đang trên bờ vực sụp đổ - một lần nữa lại vào tháng 12. Lần đầu tiên tôi gặp ông laf vào năm 2007, trước khủng hoảng tài chính, và có vẻ ở thời điểm đó ông quan tâm tới giới phê bình từ các đồng nghiệp học sĩ hơn là từ báo giới. Nhưng do chính sách của ông phụ thuộc vào việc truyền tải các mục tiêu tới công chúng, nên những chỉ trích của người dân hiện nay rất có khả năng đe dọa đến hiệu quả công việc của ông - và Bernanke cũng lo ngại như vậy. Trong những lần gặp gỡ gần đây, tôi thấy ông cương quyết hơn tôi vẫn nhớ, một kẻ cứng đầu. Khi tôi gặp ông hồi tháng 11, ông ăn mặc khá dè dặt trong bộ véc màu tối điểm bằng chiếc cà-vạt màu tím. Ông dẫn tôi vào văn phòng, cạnh phòng họp có chúc đài treo của ban thống đốc Fed, tới chỗ một chiếc ghế đệm và ghế da thẫm màu đặt hai bên chiếc bàn cà phê bằng gỗ óc chó. Văn phòng của ông trông không khác cách đây bốn năm; cũng bức ảnh Ban thống đốc Cục dự trữ liên bang đầu tiên đóng khung phía trên chiếc ghế đặt ngăn nắp của ông, như thể ông không có thời gian để ngước lên nhìn. Cuộc khủng hoảng dường như không làm ông già đi, mặc dù những chỉ trích ông phải chịu đựng rõ ràng đang đè nặng lên ông. Ngay sau chuyến thăm của tôi, ông đã công bố một lá thư ông viết cho các nhà lãnh đạo Thượng viện để phản bác từng điểm một trong loạt bài viết đánh giá rằng chương trình cho vay của Fed là "bí mật" (tên của người đi vay được giấu kín, nhưng chương sự tồn tại hay quy mô của chương trình thì vẫn được công khai) và rằng tổng các khoản cho vay và cứu trợ lên tới 7,7 nghìn tỷ, mà theo ông là một sự phóng đại điên rồ.
Bernanke thấy bị phiền lòng bởi những cuộc tấn công dường như còn hơn cả sự bôi nhọ; ngược lại, ông được phấn chấn khi người lạ đến bắt tay ông tại sân bay và trao mấy lời khích lệ. Như để bảo vệ cho chính mình, ông đã nói với tôi, "tôi vẫn cho rằng mọi thứ chúng tôi làm đều vì lợi ích của công chúng Mỹ, và rộng hơn là của nền kinh tế toàn cầu. Nhiều người hiểu điều đó". (Một cách riêng tư, Bernanke và Timothy Geithner, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, có chung nỗi băn khoăn rằng tại sao cuộc giải cứu tài chính mà họ cho là thành công lại bị phê phán gay gắt đến vậy. Geithner mới đây đã nói với tôi, khi ông thông báo với Bernanke về việc một quan chức nữa xin nghỉ việc, Bernanke đã trả lời châm biếm, "Vậy đấy, lại một bước nữa buộc tội tôi phản quốc").
Khi chúng tôi bắt đầu thảo luận về chính sách của ông, người đứng đầu Fed đã giục tôi lựa một bản cuốn Phố Lombard, một cuốn sách hội thảo về ngân hàng trung ương do Walter Bagehot, nhà viết luận người Anh thế kỷ 19, viết. "Nó rất đẹp", Bernanke nói về cuốn sách - rõ ràng đánh giá cao việc Bagehot đã kêu gọi các ngân hàng trung ương có những hành động mạnh mẽ để giải quyết sớm những sự hỗn loạn. (Ngân hàng Bank of England, Bagehot viết, nên được "cho vay vào những thời điểm trong nước rối loạn một cách tự do và đê dàng, như các nguyên lý dễ hiểu của hoạt động ngân hàng). Về phản ứng đối với các giải pháp của ông trong khủng hoảng, Bernanke nói với tôi, "Một số người không hiểu - thực hiện trách nhiệm của một người cho vay cuối cùng là những gì Fed được lập ra để làm. Đó là những gì các ngân hàng trung ương vẫn làm trong suốt 300 năm qua".
Bernanke đặc biệt am hiểu lịch sử so với các quan chức chính phủ khác. Ông nhấn mạnh, nhìn chung, những nỗ lực của ông đã tuân thủ sứ mệnh của Fed - cung cấp đồng tiền co giãn như được nêu trong phần mở đầu Luật Dự trữ Liên bang 1913 - và sự ứng tác của ông hoàn toàn là do hoàn cảnh đặc biệt và nguy hiểm của nền kinh tế Mỹ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể - họp báo, họp mặt không chính thức, xuất hiện trong chương trình 60 Minutes - để truyền đạt những ý tưởng này tới người dân. Theo Greg Mankiw, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cựu tổng thống George W. Bush và hiện là cố vấn cho Mitt Romney, Bernanke luôn hết mực tin vào quá trình dân chủ; ông nghĩ việc công bố các thông tin cần thiết sẽ thúc đẩy các cử tri có trách nhiệm hơn. Có lẽ đó là lý do tại sao phản ứng của công chúng đang gây ít nhiều những khó khăn cho ông. Bản thân Bernanke cũng muốn tránh những sự ngoa dụ không cần thiết (ông lựa chọn từ ngữ hết sức thận trọng) và hạn chế cá nhân hóa những khác biệt về chính sách. Tháng 12 năm ngoái (2011), ông nghĩ cần phải công bố một lá thư gửi cho những người đứng đầu Thượng viện, trong đó ông phân biệt rõ giữa các khoản cho vay trong Dự trữ Liên bang, thứ sẽ không đánh mất của người đóng thuế một đồng nào hay gây thêm thâm hụt liên bang, với "chi tiêu chính phủ" - điểm có lẽ dễ gây hiểm nhầm nhất trong các diễn đàn công cộng.
Năm 1931, Montagu Norman, thống đống ngân hàng trung ương Anh Bank of England, đã gục ngã trong nỗ lực đầy căng thẳng chống lại Đại suy thoái: các nhà lãnh đạo ngân hàng trung ương phải chịu áp lực rất cao trong suốt thời gian diễn ra khủng hoảng. Nhưng nếu muốn ai đó ở Mỹ đưa ra lời miêu tả về Bernanke, họ chắc chắn sẽ nói đến sự điềm tĩnh đến lạ thường của ông. Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, ông tỏ ra điềm tĩnh đến mức Donald Kohn, khi đó là phó chủ tịch của ông, đã tự hỏi, không biết Bernanke có đang cố tình kiềm chế cảm xúc của mình hay không. "Đứng trước áp lực, ông ấy đã khiến tôi quá đỗi sửng sốt khi", Olivier Blanchard, kinh tế gia trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế, chia sẻ cảm nhận.
Phong thái của vị chủ tịch đặc biệt phù hợp với các phòng hội thảo, nơi ông dành cả nửa phần đời: thận trọng, chín chắn, nhỏ nhẹ. Nhân viên của Fed thường nhắc đến đức khiêm tốn và sự sẵn sàng lắng nghe mọi quan điểm của ông. Nhưng điều này cũng có mặt trái của nó. Bernanke là nhà vận động hành lang kém hiệu quả cho các chương trình nghị sự vượt ngoài phạm vi hoạt động của Fed, như giảm thật hụt dài hạn hay cải cách cho vay thế chấp. Ông cũng đã không khai thác được vai trò lãnh đạo của cương vị chủ tịch Fed trên trường quốc tế, đơn cử như trong cuộc khủng hoảng tại châu Âu. Khi Alan Greenspan xuất hiện tại các hội nghị quốc tế, ông nhận được sự đối đã như một ngôi sao. Còn Bernanke, như lời của cựu quan chức Nhà trắng, "cũng như ai bên bàn họp mà thôi". Nhưng đó mới chính là Bernanke. Ông dùng lý lẽ để thuyết phục; ông không ồn ào.
Nhưng tính cách thận trọng của ông lại gây ấn tượng sai về sự mạnh mẽ và sẵn sàng chịu đựng áp lực chính trị cao. Đầu năm 2008, Fed đang cân nhắc cắt giảm nhẹ lãi suất để hạ nhiệt cuộc khủng hoảng đang có xu hướng leo thang; nhưng việc hạ lãi suất đã gây tranh cãi do các nhà kinh tế học "diều hâu" vốn chiếm số lượng rất đông, lo ngại dẫn tới lạm phát. Bernanke vẫn quyết định cắt giảm ¾ điểm phần trăm lãi suất - một động thái rất đáng kể. Như ông giải thích với một đồng nghiệp, ông sẽ vẫn bị phê phán cho dù ông làm bất cứ chuyện gì, vậy nên, chẳng có lý do gì phải do dự. Vài tháng sau, khi ông cố gắng thuyết phục một Quốc hội bất đắc dĩ phải thông qua Chương trình Giải cứu các tài sản gặp khó khăn (TARP) mà Bernanke cho là cần thiết để chặn lại đà suy thoái mạnh có nguy cơ làm tê liệt trung tâm đầu não, một số thành viên Quốc hội đã nói với ông rằng họ không thấy có bằng chứng suy thoái nào ở khu quận hạt của họ. Ngài chủ tịch bình thản đáp lại: "Rồi ông sẽ thấy".
Bernanke hiếm khi giao tiếp với các ngôi sao ở Washington; ông thân thiết với Geithner, người gần như mỗi tuần ông đều gặp vào mỗi buổi ăn sáng hay trưa. Bernanke cũng rất thường tới các giải đấu quốc gia hay "hộ tống" vợ, Anna, một giáo viên trung học, tới Trung tâm Kennedy. Trong vòng bốn năm, những kỳ nghỉ duy nhất của ông là những chuyến về thăm cha mẹ già và những người trong gia đình khác ở Bắc Carolina. Ông làm việc hằng ngày (kể cả trong ngày Lễ tạ ơn vừa qua, khi ông dàn xếp các khoản cho vay hoán đổi cho châu Âu) và mỗi sáng trong tuần đều có mặt ở văn phòng.
Mankiw nói có một sự gián đoạn kỳ lạ giữa uy tín của vị chủ tịch trong giới chuyên gia, những người hầu hết đều nể phục ông, và sự không hài lòng của công chúng. Đồng nghiệp nói về sự can đảm và tháo vát của ông. Larry Summers, nguyên cố vấn kinh tế của Tổng thống Obama, người nổi tiếng với chiếc lưỡi cay độc, nói với tôi rằng trong số những người nắm tình hình nội bộ của Washington, "tôi không nghĩ có ai không ưa ông". Ngay cả một số người phê bình ông, nếu xét kỹ hơn, đều không đến nỗi phê phán ông thậm tệ. Kevin Hassett, một nhà kinh tế học bảo thủ từng giúp tổ chức bức thư công khai tháng 11/2010 để phản đối việc nới lỏng định lượng, cho tôi biết, mặc dù ông không đồng tình với Bernanke về chương trình nới lỏng, nhưng nhìn chung "tôi thấy không ai có thể làm tốt hơn ông". Về suy nghĩ của ông đối với cuộc công kích của một số người Cộng hòa, Hassett bổ sung, "tôi không biết làm sao mà bạn lại có thể cay ghét ông được".
Ben Shalom Bernanke là con trai của một dược sĩ ở Dillon, Nam Carolina, một thành phố 6.800 dân (con số hiện nay). Ông nghiên cứu về Suy thoái khi còn đang học thạc sĩ tại trường MIT, và sự nghiệp học thuật ban đầu của ông đã được nhiều người biết đến khi ông tiếp tục phát triển lịch sử tiền tệ cổ điển của Milton Friedmen. Theo Friedman, sự thất bại của Fed trong những năm 1930 là vấn đề họ không in đủ tiền. Bernanke suy luận rằng thất bại thực sự khi đó đã khiến hệ thống ngân hang tự phá vỡ. "Điều Bernanke phát hiện ra là không phải khối lượng tiền tệ, mà vì các ngân hàng đã ngừng cho vay", Stanley Fischer, người hướng dẫn luận án của Bernanke tại MIT và hiện là thống đốc Ngân hàng Trung ương Israel, nói. "Còn hơn cả sự suy giảm về tiền tệ, nó là sự sụp đổ của tín dụng". Hàm ý cần rút ra là việc điều tiết các ngân hàng trong hoàn cảnh thuận lợi - và nếu cần, giải cứu họ vào những lúc khó khăn - là điều có ý nghĩa tối quan trọng mà Bernanke sẽ ghi nhớ trong cuộc khủng hoảng 2007-2009.
Tại Princeton, Bernanke trở thành học giả tiền tệ hàng đầu của nước Mỹ. Đầu tiên, ông tham gia Fed, với vai trò thống đốc, vào năm 2002, và ngay cả khi đó, với ông, Đại suy thoái vẫn là một bài học sống động. Vài tháng sau khi đảm nhận chức vụ thống đốc, ông có bài phát biểu tại Hội các nhà kinh tế quốc gia (Mỹ) về nguy cơ xảy ra cuộc sụp đổ kiểu những năm 1930. Vấn đề cụ thể của những năm 1930 là giảm phát: hàng hóa mất dần đi giá trị sau mỗi năm - hay nói cách khác, đồng đôla Mỹ liên tục mạnh lên. Trái ngược với hình ảnh của lạm phát, khi xảy ra giảm phát, sẽ không ai chi tiêu, bởi giá thấp sẽ xuống thấp mãi, và sẽ không ai vay tiền, bởi họ sẽ phải hoàn trả nợ bằng những đồng đôla có giá trị hơn về sau này. Ngân hàng trung ương đã cắt giảm lãi suất nhằm khuyến khích vay tiền và chi tiêu, nhưng sau đó cũng mất luôn cơ hội sử dụng các phương thức thực nghiệm khác để kích thích kinh tế. Sản xuất và việc làm tiếp tục đi xuống theo chiều xoáy trôn ốc; Keynes gọi đây là "bẫy thanh khoản".
Năm 2002, trong cuộc thảo luận với Hội các nhà kinh tế quốc gia, khi nền kinh tế chạm đáy sau cuộc khủng hoảng dot-com, Bernanke đã nói đến khả năng xảy ra chu kỳ giảm phát và suy thoái nghiêm trọng mới. Nên tránh giảm phát ở mọi thời điểm, ông nói, bởi nếu đã diễn ra, Cục dự trữ Liên bang sẽ bất lực trong cuộc chiến với nó. Ông đã kê ra một số "đơn thuốc" khả thi, như mua trái phiếu dài hạn và các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp của các cơ quan chính phủ. Và trong trường hợp mọi phương pháp khác đều thất bại, Fed có thể kích thích chi tiêu bằng cách phương thức "ném tiền xuống từ máy bay". ( Bernanke nói, Friedman từng hài hước đề nghị thả những tờ giấy bạc từ trên trời rơi xuống, mà điều này Fed hoàn toàn có thể làm được trong thực tế bằng cách in tiền để bù vào khoản thuế cắt giảm). Bernanke quay trở lại với chủ đề này trong hai bài diễn văn tiếp theo vào năm 2003. Rõ ràng, giảm phát và khủng hoảng luôn ở trong tâm trí ông.
Nhưng trong khi Bernanke nhận ra mối nguy cơ đó trên lý thuyết, ông lại không lường trước được sự sụp đổ sắp xảy ra với giá nhà đất. Quả vậy, ông cho rằng các ngân hàng trung ương, trong đó có Fed, đã khống chế được tính cực đoan của chu kỳ kinh tế. Năm 2005, trong bài phát biểu tại St. Louis, ông đã giải thích đầy thuyết phục tại sao vốn từ Trung Quốc và các quốc gia khác đang chảy vào thị trường bất động sản Mỹ và tạo áp lực tăng giá trên thị trường bất động sản trong nước. Ông không tỏ ra quan ngại. Năm sau, năm bong bóng nhà đất thổi phồng hết cỡ, ông trở thành chủ tịch Fed.
Năm 2007, khi cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ngấm vào thị trường tài chính, những kiến thức của Bernanke đã khiến ông thất bại. Là một học giả, ông nghiên cứu vì sao sự thất bại của ngân hàng có thể làm trầm trọng thêm cuộc Đại suy thoái; là chủ tịch của Fed, ông đã không giám sát các ngân hàng đủ kỹ lưỡng - nghĩa là ông bỏ qua thực tế rằng các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng lớn nhất. "Rủi ro tập trung ở những nhà trung gian tài chính chủ chốt", ông nói với tôi. "Nó dẫn tới sự hoảng loạn và tháo chạy. Đó là điều khiến tất cả trở nên tồi tệ đến vậy".
Bernanke thấy bị phiền lòng bởi những cuộc tấn công dường như còn hơn cả sự bôi nhọ; ngược lại, ông được phấn chấn khi người lạ đến bắt tay ông tại sân bay và trao mấy lời khích lệ. Như để bảo vệ cho chính mình, ông đã nói với tôi, "tôi vẫn cho rằng mọi thứ chúng tôi làm đều vì lợi ích của công chúng Mỹ, và rộng hơn là của nền kinh tế toàn cầu. Nhiều người hiểu điều đó". (Một cách riêng tư, Bernanke và Timothy Geithner, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, có chung nỗi băn khoăn rằng tại sao cuộc giải cứu tài chính mà họ cho là thành công lại bị phê phán gay gắt đến vậy. Geithner mới đây đã nói với tôi, khi ông thông báo với Bernanke về việc một quan chức nữa xin nghỉ việc, Bernanke đã trả lời châm biếm, "Vậy đấy, lại một bước nữa buộc tội tôi phản quốc").
Khi chúng tôi bắt đầu thảo luận về chính sách của ông, người đứng đầu Fed đã giục tôi lựa một bản cuốn Phố Lombard, một cuốn sách hội thảo về ngân hàng trung ương do Walter Bagehot, nhà viết luận người Anh thế kỷ 19, viết. "Nó rất đẹp", Bernanke nói về cuốn sách - rõ ràng đánh giá cao việc Bagehot đã kêu gọi các ngân hàng trung ương có những hành động mạnh mẽ để giải quyết sớm những sự hỗn loạn. (Ngân hàng Bank of England, Bagehot viết, nên được "cho vay vào những thời điểm trong nước rối loạn một cách tự do và đê dàng, như các nguyên lý dễ hiểu của hoạt động ngân hàng). Về phản ứng đối với các giải pháp của ông trong khủng hoảng, Bernanke nói với tôi, "Một số người không hiểu - thực hiện trách nhiệm của một người cho vay cuối cùng là những gì Fed được lập ra để làm. Đó là những gì các ngân hàng trung ương vẫn làm trong suốt 300 năm qua".
Bernanke đặc biệt am hiểu lịch sử so với các quan chức chính phủ khác. Ông nhấn mạnh, nhìn chung, những nỗ lực của ông đã tuân thủ sứ mệnh của Fed - cung cấp đồng tiền co giãn như được nêu trong phần mở đầu Luật Dự trữ Liên bang 1913 - và sự ứng tác của ông hoàn toàn là do hoàn cảnh đặc biệt và nguy hiểm của nền kinh tế Mỹ. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể - họp báo, họp mặt không chính thức, xuất hiện trong chương trình 60 Minutes - để truyền đạt những ý tưởng này tới người dân. Theo Greg Mankiw, chuyên gia kinh tế hàng đầu của cựu tổng thống George W. Bush và hiện là cố vấn cho Mitt Romney, Bernanke luôn hết mực tin vào quá trình dân chủ; ông nghĩ việc công bố các thông tin cần thiết sẽ thúc đẩy các cử tri có trách nhiệm hơn. Có lẽ đó là lý do tại sao phản ứng của công chúng đang gây ít nhiều những khó khăn cho ông. Bản thân Bernanke cũng muốn tránh những sự ngoa dụ không cần thiết (ông lựa chọn từ ngữ hết sức thận trọng) và hạn chế cá nhân hóa những khác biệt về chính sách. Tháng 12 năm ngoái (2011), ông nghĩ cần phải công bố một lá thư gửi cho những người đứng đầu Thượng viện, trong đó ông phân biệt rõ giữa các khoản cho vay trong Dự trữ Liên bang, thứ sẽ không đánh mất của người đóng thuế một đồng nào hay gây thêm thâm hụt liên bang, với "chi tiêu chính phủ" - điểm có lẽ dễ gây hiểm nhầm nhất trong các diễn đàn công cộng.
Năm 1931, Montagu Norman, thống đống ngân hàng trung ương Anh Bank of England, đã gục ngã trong nỗ lực đầy căng thẳng chống lại Đại suy thoái: các nhà lãnh đạo ngân hàng trung ương phải chịu áp lực rất cao trong suốt thời gian diễn ra khủng hoảng. Nhưng nếu muốn ai đó ở Mỹ đưa ra lời miêu tả về Bernanke, họ chắc chắn sẽ nói đến sự điềm tĩnh đến lạ thường của ông. Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, ông tỏ ra điềm tĩnh đến mức Donald Kohn, khi đó là phó chủ tịch của ông, đã tự hỏi, không biết Bernanke có đang cố tình kiềm chế cảm xúc của mình hay không. "Đứng trước áp lực, ông ấy đã khiến tôi quá đỗi sửng sốt khi", Olivier Blanchard, kinh tế gia trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế, chia sẻ cảm nhận.
Phong thái của vị chủ tịch đặc biệt phù hợp với các phòng hội thảo, nơi ông dành cả nửa phần đời: thận trọng, chín chắn, nhỏ nhẹ. Nhân viên của Fed thường nhắc đến đức khiêm tốn và sự sẵn sàng lắng nghe mọi quan điểm của ông. Nhưng điều này cũng có mặt trái của nó. Bernanke là nhà vận động hành lang kém hiệu quả cho các chương trình nghị sự vượt ngoài phạm vi hoạt động của Fed, như giảm thật hụt dài hạn hay cải cách cho vay thế chấp. Ông cũng đã không khai thác được vai trò lãnh đạo của cương vị chủ tịch Fed trên trường quốc tế, đơn cử như trong cuộc khủng hoảng tại châu Âu. Khi Alan Greenspan xuất hiện tại các hội nghị quốc tế, ông nhận được sự đối đã như một ngôi sao. Còn Bernanke, như lời của cựu quan chức Nhà trắng, "cũng như ai bên bàn họp mà thôi". Nhưng đó mới chính là Bernanke. Ông dùng lý lẽ để thuyết phục; ông không ồn ào.
Nhưng tính cách thận trọng của ông lại gây ấn tượng sai về sự mạnh mẽ và sẵn sàng chịu đựng áp lực chính trị cao. Đầu năm 2008, Fed đang cân nhắc cắt giảm nhẹ lãi suất để hạ nhiệt cuộc khủng hoảng đang có xu hướng leo thang; nhưng việc hạ lãi suất đã gây tranh cãi do các nhà kinh tế học "diều hâu" vốn chiếm số lượng rất đông, lo ngại dẫn tới lạm phát. Bernanke vẫn quyết định cắt giảm ¾ điểm phần trăm lãi suất - một động thái rất đáng kể. Như ông giải thích với một đồng nghiệp, ông sẽ vẫn bị phê phán cho dù ông làm bất cứ chuyện gì, vậy nên, chẳng có lý do gì phải do dự. Vài tháng sau, khi ông cố gắng thuyết phục một Quốc hội bất đắc dĩ phải thông qua Chương trình Giải cứu các tài sản gặp khó khăn (TARP) mà Bernanke cho là cần thiết để chặn lại đà suy thoái mạnh có nguy cơ làm tê liệt trung tâm đầu não, một số thành viên Quốc hội đã nói với ông rằng họ không thấy có bằng chứng suy thoái nào ở khu quận hạt của họ. Ngài chủ tịch bình thản đáp lại: "Rồi ông sẽ thấy".
Bernanke hiếm khi giao tiếp với các ngôi sao ở Washington; ông thân thiết với Geithner, người gần như mỗi tuần ông đều gặp vào mỗi buổi ăn sáng hay trưa. Bernanke cũng rất thường tới các giải đấu quốc gia hay "hộ tống" vợ, Anna, một giáo viên trung học, tới Trung tâm Kennedy. Trong vòng bốn năm, những kỳ nghỉ duy nhất của ông là những chuyến về thăm cha mẹ già và những người trong gia đình khác ở Bắc Carolina. Ông làm việc hằng ngày (kể cả trong ngày Lễ tạ ơn vừa qua, khi ông dàn xếp các khoản cho vay hoán đổi cho châu Âu) và mỗi sáng trong tuần đều có mặt ở văn phòng.
Mankiw nói có một sự gián đoạn kỳ lạ giữa uy tín của vị chủ tịch trong giới chuyên gia, những người hầu hết đều nể phục ông, và sự không hài lòng của công chúng. Đồng nghiệp nói về sự can đảm và tháo vát của ông. Larry Summers, nguyên cố vấn kinh tế của Tổng thống Obama, người nổi tiếng với chiếc lưỡi cay độc, nói với tôi rằng trong số những người nắm tình hình nội bộ của Washington, "tôi không nghĩ có ai không ưa ông". Ngay cả một số người phê bình ông, nếu xét kỹ hơn, đều không đến nỗi phê phán ông thậm tệ. Kevin Hassett, một nhà kinh tế học bảo thủ từng giúp tổ chức bức thư công khai tháng 11/2010 để phản đối việc nới lỏng định lượng, cho tôi biết, mặc dù ông không đồng tình với Bernanke về chương trình nới lỏng, nhưng nhìn chung "tôi thấy không ai có thể làm tốt hơn ông". Về suy nghĩ của ông đối với cuộc công kích của một số người Cộng hòa, Hassett bổ sung, "tôi không biết làm sao mà bạn lại có thể cay ghét ông được".
Ben Shalom Bernanke là con trai của một dược sĩ ở Dillon, Nam Carolina, một thành phố 6.800 dân (con số hiện nay). Ông nghiên cứu về Suy thoái khi còn đang học thạc sĩ tại trường MIT, và sự nghiệp học thuật ban đầu của ông đã được nhiều người biết đến khi ông tiếp tục phát triển lịch sử tiền tệ cổ điển của Milton Friedmen. Theo Friedman, sự thất bại của Fed trong những năm 1930 là vấn đề họ không in đủ tiền. Bernanke suy luận rằng thất bại thực sự khi đó đã khiến hệ thống ngân hang tự phá vỡ. "Điều Bernanke phát hiện ra là không phải khối lượng tiền tệ, mà vì các ngân hàng đã ngừng cho vay", Stanley Fischer, người hướng dẫn luận án của Bernanke tại MIT và hiện là thống đốc Ngân hàng Trung ương Israel, nói. "Còn hơn cả sự suy giảm về tiền tệ, nó là sự sụp đổ của tín dụng". Hàm ý cần rút ra là việc điều tiết các ngân hàng trong hoàn cảnh thuận lợi - và nếu cần, giải cứu họ vào những lúc khó khăn - là điều có ý nghĩa tối quan trọng mà Bernanke sẽ ghi nhớ trong cuộc khủng hoảng 2007-2009.
Tại Princeton, Bernanke trở thành học giả tiền tệ hàng đầu của nước Mỹ. Đầu tiên, ông tham gia Fed, với vai trò thống đốc, vào năm 2002, và ngay cả khi đó, với ông, Đại suy thoái vẫn là một bài học sống động. Vài tháng sau khi đảm nhận chức vụ thống đốc, ông có bài phát biểu tại Hội các nhà kinh tế quốc gia (Mỹ) về nguy cơ xảy ra cuộc sụp đổ kiểu những năm 1930. Vấn đề cụ thể của những năm 1930 là giảm phát: hàng hóa mất dần đi giá trị sau mỗi năm - hay nói cách khác, đồng đôla Mỹ liên tục mạnh lên. Trái ngược với hình ảnh của lạm phát, khi xảy ra giảm phát, sẽ không ai chi tiêu, bởi giá thấp sẽ xuống thấp mãi, và sẽ không ai vay tiền, bởi họ sẽ phải hoàn trả nợ bằng những đồng đôla có giá trị hơn về sau này. Ngân hàng trung ương đã cắt giảm lãi suất nhằm khuyến khích vay tiền và chi tiêu, nhưng sau đó cũng mất luôn cơ hội sử dụng các phương thức thực nghiệm khác để kích thích kinh tế. Sản xuất và việc làm tiếp tục đi xuống theo chiều xoáy trôn ốc; Keynes gọi đây là "bẫy thanh khoản".
Năm 2002, trong cuộc thảo luận với Hội các nhà kinh tế quốc gia, khi nền kinh tế chạm đáy sau cuộc khủng hoảng dot-com, Bernanke đã nói đến khả năng xảy ra chu kỳ giảm phát và suy thoái nghiêm trọng mới. Nên tránh giảm phát ở mọi thời điểm, ông nói, bởi nếu đã diễn ra, Cục dự trữ Liên bang sẽ bất lực trong cuộc chiến với nó. Ông đã kê ra một số "đơn thuốc" khả thi, như mua trái phiếu dài hạn và các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp của các cơ quan chính phủ. Và trong trường hợp mọi phương pháp khác đều thất bại, Fed có thể kích thích chi tiêu bằng cách phương thức "ném tiền xuống từ máy bay". ( Bernanke nói, Friedman từng hài hước đề nghị thả những tờ giấy bạc từ trên trời rơi xuống, mà điều này Fed hoàn toàn có thể làm được trong thực tế bằng cách in tiền để bù vào khoản thuế cắt giảm). Bernanke quay trở lại với chủ đề này trong hai bài diễn văn tiếp theo vào năm 2003. Rõ ràng, giảm phát và khủng hoảng luôn ở trong tâm trí ông.
Nhưng trong khi Bernanke nhận ra mối nguy cơ đó trên lý thuyết, ông lại không lường trước được sự sụp đổ sắp xảy ra với giá nhà đất. Quả vậy, ông cho rằng các ngân hàng trung ương, trong đó có Fed, đã khống chế được tính cực đoan của chu kỳ kinh tế. Năm 2005, trong bài phát biểu tại St. Louis, ông đã giải thích đầy thuyết phục tại sao vốn từ Trung Quốc và các quốc gia khác đang chảy vào thị trường bất động sản Mỹ và tạo áp lực tăng giá trên thị trường bất động sản trong nước. Ông không tỏ ra quan ngại. Năm sau, năm bong bóng nhà đất thổi phồng hết cỡ, ông trở thành chủ tịch Fed.
Năm 2007, khi cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ngấm vào thị trường tài chính, những kiến thức của Bernanke đã khiến ông thất bại. Là một học giả, ông nghiên cứu vì sao sự thất bại của ngân hàng có thể làm trầm trọng thêm cuộc Đại suy thoái; là chủ tịch của Fed, ông đã không giám sát các ngân hàng đủ kỹ lưỡng - nghĩa là ông bỏ qua thực tế rằng các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng lớn nhất. "Rủi ro tập trung ở những nhà trung gian tài chính chủ chốt", ông nói với tôi. "Nó dẫn tới sự hoảng loạn và tháo chạy. Đó là điều khiến tất cả trở nên tồi tệ đến vậy".
Có một lý do nữa đằng sau cách hiểu chưa sâu sắc của ông khi đó, theo tôi nghĩ là: Bernanke có lòng tin của một học sĩ vào tính hợp lý thiết yếu của thị trường. Ông hoài nghi về khái niệm sự điên rồ của thị trường đại chúng đến mức trong một bài viết nghiên cứu, ông đã nhắc đến từ bong bóng trong ngoặc kép. Giống như Greenspan, ông không phản đối về mặt tư tưởng đối với sự can thiệp của chính phủ, nhưng ông cũng nghi ngờ việc ai có thể nhận ra, ngay lập tức, khi nào thị trường bắt đầu có vấn đề.
Ngoài những điều đáng trách này, cũng cần lưu ý rằng quả bóng đã phình to dần trong gần như cả nhiệm kỳ của Greenspan. Thời điểm có thể tránh một sự sụp đổ là khi các tài sản thế chấp bắt đầu được đém bán, hay khi ngân hàng vẫn có thể bán tài sản mà không gây hoảng loạn; vào lúc Bernanke xuất hiện, khủng hoảng có lẽ đã đến độ không thể tránh khỏi. Và thế là, đến năm 2008, Bernanke phải đối diện với chính kiểu khủng hoảng ngân hàng mà ông đã dành cả cuộc đời học thuật của mình để nghiên cứu. Không ai phù hợp với công việc này hơn ông; thực tế, Fed đã chọn đến từng loại thuốc những đơn thuốc mà Bernanke "kê ra" trong bài phát biểu năm 2002.
Trong cuộc thảo luận giữa hai chúng tôi, Bernanke khẳng định các gói giải cứu ngân hàng là cần thiết, nhưng ông lại tỏ ra rất không ưa dùng - "Điều đó không bao giờ được phép xảy ra lần nữa", ông ngắt lời khi tôi nhắc đến AIG, công ty bảo hiểm khổng lồ với những hành động cẩu thả mà ông vẫn phê bình. Theo Luật Dự trữ Liên bang, Fed có quyền cung cấp những khoản cho vay "trong tình huống bất thường và cấp thiết" miễn là các khoản cho vay "đảm bảo thỏa mãn các Ngân hàng Dự trữ Liên bang", nghĩa là chừng nào Fed còn không muốn bất cứ sự mất mát nào. Nhưng công bằng mà nói, khi khủng hoảng xuống quá sâu, một số khoản cho vay khẩn cấp của Fed đã vi phạm tuyên bố chính thức này. Khả năng thanh toán của các tổ chức như AIG và Bank of America bị nghi ngờ. Nhưng khả năng thanh toán của một ngân hàng có thể bản thân nó lại phụ thuộc vào sự sẵn sàng can thiệp của Fed. Brian Madigan, cựu quan chức cấp cao của Fed, đã đưa ra lập luận như vậy ngay sau cuộc khủng hoảng, và cũng viết rằng các nguyên tắc của Bagehot "cần được giải thích và áp dụng vào thế giới thực". Có thể hiểu rằng ông đang nói bênh vực vị chủ tịch. Khi hệ thống tài chính đang mấp mé bờ vực sụp đổ, các gói giải cứu dù sao vẫn là con quỷ hiền hơn trong hai con quỷ.
Ngay cả các nhà kinh tế xu hướng cánh hữu cùng hầu như đều cho Bernanke điểm cộng với những hành động của ông trong thời kỳ hoảng loạn tài chính. Làn khói "chiến tranh" dày đặc, và ông đã cố gắng tránh để mất tiền của người đóng thuế. Nhưng trong giai đoạn thứ hai - nhằm vực dậy nền kinh tế, và cải thiện tỷ lệ thất nghiệp - ông đã nhận được phản ứng giận dữ của các nhà tư tưởng từ cả hai phía. Ngay cả Ủy ban Thị trường mở của Fed, nhóm những người hoạch định chính sách lãi suất, cũng mỗi người một ý. Trong thời kỳ của Greenspan, đặc biệt là khi ảnh hưởng của vị chủ tịch tăng lên, cơ quan này nói với một giọng điệu chung, tàn thành mọi điều ngài chủ tịch muốn. Ủy ban của Bernanke là một mớ hỗn độn tiền tệ - phần vì ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến trái chiều, và phần vì quan điểm còn chia rẽ sâu sắc. Trong khi Greenspan chỉ phải nhận một lá phiếu bất đồng ở đâu đó, Bernanke lại phải lĩnh tới 32 lá phiếu này, bao gồm ba người bất đồng chỉ trong riêng một cuộc họp. Điều này chưa từng xảy ra trong suốt 20 năm trước đó.
Hầu hết những người bất đồng với Bernanke là cánh diều hâu, trừ Charles Evans, chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Bank of Chicago, Cục dự trữ Liên bang, đã hai lần không đồng quan điểm vì ông nghĩ Fed nên sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn cho tới khi thị trường việc làm phục hồi trở lại. Janet Yellen, phó chủ tịch Fed, và William Dudley, chủ tịch Fed New York, cũng đang ngả theo hướng tăng kích thích. Chưa từng có lãnh đạo Fed nào trước đó phải đương đầu với sự chia rẽ nội bộ như vậy.
Tình thế khó khăn của Bernanke xuất phát từ thực tế, khác với các ngân hàng trung ương trên thế giới, Fed nhận được sự ủy quyền kép - theo luật pháp, nó có trách nhiệm "thúc đẩy việc làm tối đa" đồng thời đảm bảo "giá cả ổn định". Ngân hàng Trung ương châu Âu, ngược lại, chỉ có nhiệm vụ quan tâm tới lạm phát. Đó là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương châu Âu lại hai lần nâng lãi suất trong năm 2011, khi châu Âu tiến dần đến miệng hố khủng hoảng và đứng trước nguy cơ vỡ nợ.
Nguyên nhân hình thành của Liên minh châu Âu là siêu lạm phát ở Đức những năm 1920, điều mà từ đó đã thôi thúc các ngân hàng trung ương Lục địa già luôn chống lại việc in thêm tiền. Ở Frankfurt, khái niệm "người cho vay cuối cùng", trước này vẫn không được ưa chuộng. Với Cục Dự trữ liên bang Mỹ, nguyên nhân thành lập là một loạt những cuộc khủng hoảng bắt đầu từ thế kỷ 19 và tích tụ lại trong cuộc Đại suy thoái. Sau sự giải thể ngân hàng của chủ tịch Biddle vào những năm 1930, "tiền" ở Mỹ bao gồm tất cả các giấy bạc mà các ngân hàng in ấn và người dân đồng ý nắm giữ. Ngay cả sau nội chiến, khi tiền được đồng nhất, nó cũng thường là một thứ hàng hóa khan hiếm, và những hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng cũng thường xuyên xảy ra.
Fed được thành lập năm 1913, như một tấm lưới chặn của hệ thống tài chính. "In tiền" - lời cáo buộc mà Rick Perry nhằm vào Bernanke - là một phần chức năng của ngân hàng từ khi sinh ra. Tiền vẫn bao gồm các giấy bạc ngân hàng, chỉ khác là hiện giờ ngân hàng đó có tên là Cục dự trữ Liên bang. Fed dường như đã hoàn thành lời hứa trong thế chiến thứ nhất, bơm hàng trăm triệu đô la khẩn cấp vào hệ thống tài chính. Trong Đại suy thoái, vì những lý do mà cho tới nay còn gây tranh cãi, nó đã thất bại. Bernanke rõ ràng đã muốn tránh cái sai lầm lớn nhất mà các ngân hàng châu Âu đã phạm phải trong giai đoạn Đại suy thoái. Thế nhưng, thất nghiệp vẫn cao, đặt ra câu hỏi cho một số nhà kinh tế học, đặc biệt thuộc phe cánh tả, về việc Fed đã hoàn thành nhiệm vụ hay chưa.
Bernanke chủ yếu vẫn khống chế lạm phát ở quanh mức 2% một năm, cũng là mức ông muốn duy trì - không quá cao đến mức đe dọa thổi bùng lạm phát, nhưng đủ để tạo một vùng đệm giúp các nhà hoạch định chính sách có thể phản ứng nếu lạm phát có dấu hiệu đi xuống và nguy cơ dẫn tới giảm phát. Krugman và nhiều người khác cho rằng Fed nên khuyến khích tăng lạm phát lên cao hơn để giải quyết dứt điểm vấn đề thất nghiệp cao. Lý do này có thể hiểu ở một số cấp độ. Dĩ nhiên, in tiền không tạo ra việc làm. Nhưng do lương khó có thể bị hạ xuống, nên giá hàng hóa cao hơn có thể giúp giới chủ có đủ tiền để thuê lao động. Đơn cử, khi tình hình trở nên khó khăn, McDonald không ngần ngại hạ giá bán bánh hamburger, nhưng cũng khó có thể giảm tiền lương. Thay vào đó, họ thuê ít lao động hơn (đó là lý do tại sao nền kinh tế đã mất tới 8,5 triệu việc làm trong giai đoạn suy thoái). Lạm phát là một cách cắt giảm chi phí lương khó nhìn thấy rõ hơn. Người lao động nghĩ họ vẫn kiếm đượng ra ngần ấy tiền, nhưng do đồng USD mất giá, chủ thuê lao động có thể dễ dàng xoay xở lương cho họ hơn.
Cách thứ hai lạm phát có thể có ích cho nền kinh tế là nó khiến cho việc vay mượn và chi tiêu trở nên hấp dẫn hơn (người đi vay có thể hoàn trả nợ bằng những đồng đôla rẻ hơn). Cũng với lý do này, lạm phát cũng đem lại lợi ích cho những người vốn đang mắc nợ - chẳng hạn như những người đi vay thế chấp. Bằng cách thúc đẩy nhanh quá trình giảm nợ của các hộ gia đình Mỹ, lạm phát có thể gỡ khó cho thị trường nhà đất và đưa Mỹ nhanh chóng trở lại với kiểu chi tiêu và lao động bình thường hơn. Kenneth Rogoff, một chuyên gia kinh tế của Harvard và từng có thời gian công tác tại Fed, đã đề nghị Bernanke cố gắng nâng mức lạm phát lên trong ngưỡng từ 4% đến 6%.
Nhưng cũng có nhiều lý do cho thấy cần phải thận trọng với những "đơn thuốc" này. Cũng giống như khi lạm phát đem lại lợi ích cho người đi vay, nó lại gây thiệt hại cho người chủ cho vay. Ngân hàng và người nắm giữ trái phiếu có cảm giác bị lừa bởi tiền cho vay của họ được trả lại bằng những đồng tiền có giá trị thấp hơn. Tương tự, những người có tiền tiết kiệm cố định, như người về hưu, cũng chịu tình cảnh chung với tiền tiết kiệm của họ. Tổng thống Grover Cleveland (1837 - 1908), một "chiến sĩ" trong cuộc chiến chống lạm phát (ở thời của ông, lạm phát xảy ra do giá bạc giảm nhanh), đã miêu tả, đó giống như một việc dâng tiền cho kẻ trộm. Dĩ nhiên, có người cũng được lợi từ kẻ trộm này - ở thời của Cleveland, là những nông dân khi giá nông phẩm cao hơn; còn ở thời điểm hiện nay, đó là những người thất nghiệp. Lạm phát khó có thể gây ra thất nghiệp, mà giúp tạo ra một sự đánh đổi, dẫn tới kẻ thắng và người thua. Nhưng sự đánh đổi này chỉ mang tính tạm thời. Cuối cùng, lương cũng bắt kịp với việc in tiền. Đến khi nền kinh tế đã vận hành với đúng tiềm năng, thì việc thả tiền từ trên trời xuống sẽ không tạo thêm được việc làm. Nó sẽ chỉ gây lạm phát.
Bernanke đã cân nhắc kỹ lưỡng về lập luận của Krugman - Rogoff. Trên thực tế tồn tại một khó khăn. Chính sách của Fed có hiệu quả một phần nhờ cách họ để cho thị trường làm những công việc của Fed (nếu Fed mua trái phiếu, các nhà kinh doanh cũng muốn làm điều tương tự với tư cách là bộ phận của thị trường mua lại trái phiếu giống các ngân hàng trung ương). Nhưng bất kỳ chính sách nào được lựa chọn bởi ít hơn tỷ lệ đa số 7/3 trong Ủy ban Thị tường mở của Fed sẽ không được thị trường coi là một chính sách tốt, có khả năng kéo dài, và Bernanke rất khó đảm bảo giành được tỷ lệ cao vào hoàn cảnh hiện nay. "Không ngân hàng trung ương nào sẽ làm như vậy", Mankiw nói về việc nâng mức mục tiêu lạm phát; phản ứng chính trị sẽ trở nên rất nghiêm trọng. (Khi Mankiw, một nhà kinh tế học của Harvard, viết một loạt bài đặt ra khả năng nâng mức mục tiêu lạm phát, Drew Faust, chủ tịch của trường đại học này, đã nhận được không ít đơn thư yêu cầu cách chức Mankiw).
Điều này có vẻ đã khẳng định luận đề của Krugman rằng Bernanke muốn lạm phát tăng, nhưng ông lại quá thận trọng. Nhưng sau khi nói chuyện một hồi với vị chủ tịch (nhìn chung ông không muốn được tôi trích dẫn những gì ông nói về vấn đề này), tôi nghĩ rằng, mặc dù Bernanke tôn trọng những lập luận của giới nghiên cứu về nâng mức lạm phát, ông lại thấy hợp lý hơn nếu không làm như vậy. Thứ nhất, ông lo lạm phát một khi đã tăng lên, khó có thể kiềm chế lại. Fed tạo ra lạm phát bằng cách bơm thêm tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng (lãi suất giảm là cách giúp thị trường tăng lượng tiền tệ). Nếu quá nhiều tiền đổ vào hệ thống, đến mức lương và giá cả đều đồng loạt tăng, đà tăng này sẽ có thể tự tồn tại. Bernanke nói với tôi: "Quan niệm rằng chúng ta có thể nâng mức lạm phát một cách an toàn và sau đó kiểm soát nó, rất cần được xem xét lại".
Thứ hai, nâng mức lạm phát cũng không hề dễ dàng. Lạm phát không phải cho phép tăng thì sẽ tăng - theo chỉ dụ của ngân hàng trung ương. Mà thay vào đó, Fed còn phải thuyết phục hàng triệu người dân chi tiêu nhiều hơn và hàng chục nghìn doanh nghiệp nâng giá sản phẩm. Và lạm phát sẽ không tăng nếu người dân nghĩ việc nới lỏng tiền tệ chỉ mang tính tạm thời. Tiền từ tín dụng, và vay mượn phụ thuộc vào kỳ vọng tương lai. Theo lý thuyết, thị trường xác lập mức lãi suất dài hạn để phản ánh tổng mức lãi suất ngắn hạn kỳ vọng trong tương lai. Vì thế biện pháp để giảm lãi suất dài hạn là phải thuyết phục người dân rằng lãi suất ngắn hạn (do Fed kiểm soát) sẽ duy trì ở mức thấp trong vô thời hạn. Như Bernanke hiểu rõ, vấn đề này tạo ra vô khối câu chuyện, mà nội dung chính trong đó là Fed sẽ phải đích thân tự nhận mình là "vô trách nhiệm". Nói cách khác, Fed sẽ phải nói, "ngay cả khi giá cả bắt đầu tăng, ngay cả khi lạm phát bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát, chúng tôi sẽ vẫn giữ lãi suất ở mức gần bằng không". Đó là điều đã gây ra lạm phát của những năm 1970: người dân nghĩ lạm phát sẽ tăng mãi, và tinh thần đi vay để chi tiêu càng trở nên ăn sâu. Nếu Bernanke phải tạo ra cái bầu không khí đó một lần nữa, sẽ rất khó để chặn nó lại.
Theo tôi hiểu, Bernanke là một ông chủ ngân hàng quá tỉnh táo nên không muốn liều lĩnh với uy tín của Fed trong vấn đề lạm phát. Quan điểm của ông thể hiện một sự khác biệt với các đồng nghiệp học giả, bởi vì, trong thế giới như các học giả thiên tả miêu tả, nâng mức lạm phát là điều duy nhất có thể phát huy tác dụng khi nền kinh tế có xu hướng đông cứng. Bernanke nghĩ ông có nhiều công cụ khác. Đầu tiên, dĩ nhiên, là nới lỏng định lượng. Thay vì hạ mức kỳ vọng lãi suất ngắn hạn, chính là cách mà Fed hay vận dụng, ông tiến hành nới lỏng định lượng, bao gồm sự can thiệp trực tiếp vào lĩnh vực thị trường tín dụng dài hạn. Bằng việc mua lại các chứng khoán dài hạn, Fed muốn giảm chi phí thế chấp, nợ doanh nghiệp... Tác động tới lãi suất dài hạn là một động thái tất yếu, bởi lãi suất ngắn hạn vốn đã gần bằng không. Nhưng nới lỏng định lượng có tạo ra nhiều ảnh hưởng hay không còn đang được tranh cãi.Chính sách rõ ràng đã hiệu quả trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp, khi nó giúp chống đông cứng thị trường tín dụng, cho chép các doanh nghiệp và cá nhân tiếp tục vay tiền. Tuy nhiên, ngay cả những người ủng hộ Bernanke cũng thừa nhận rằng kể từ khi những thị trường này hoạt động trở lại, việc tiếp tục mua trái phiếu dài hạn chỉ mang lại những kết quả khiêm tốn. Mark Gertler, một nhà kinh tế học tại Đại học New York và cũng là bạn của Bernanke, nói, đợt nới lỏng định lượng lần hai có thể chỉ làm cho mũi kim dịch chuyển chỉ chừng ¼ điểm phần trăm. Nhưng ông cũng đánh giá cao chính sách bởi nó giúp duy trì lạm phát không rơi xuống mức thấp nguy hiểm - "một thành tựu không hề nhỏ". Fed dường như cũng đã đẩy nhanh những đột biến về giá vàng, giá dầu và các hàng hóa khác vào năm ngoái. Và điều đó, với những người bảo thủ, chính là vấn đề.
Ngoài những điều đáng trách này, cũng cần lưu ý rằng quả bóng đã phình to dần trong gần như cả nhiệm kỳ của Greenspan. Thời điểm có thể tránh một sự sụp đổ là khi các tài sản thế chấp bắt đầu được đém bán, hay khi ngân hàng vẫn có thể bán tài sản mà không gây hoảng loạn; vào lúc Bernanke xuất hiện, khủng hoảng có lẽ đã đến độ không thể tránh khỏi. Và thế là, đến năm 2008, Bernanke phải đối diện với chính kiểu khủng hoảng ngân hàng mà ông đã dành cả cuộc đời học thuật của mình để nghiên cứu. Không ai phù hợp với công việc này hơn ông; thực tế, Fed đã chọn đến từng loại thuốc những đơn thuốc mà Bernanke "kê ra" trong bài phát biểu năm 2002.
Trong cuộc thảo luận giữa hai chúng tôi, Bernanke khẳng định các gói giải cứu ngân hàng là cần thiết, nhưng ông lại tỏ ra rất không ưa dùng - "Điều đó không bao giờ được phép xảy ra lần nữa", ông ngắt lời khi tôi nhắc đến AIG, công ty bảo hiểm khổng lồ với những hành động cẩu thả mà ông vẫn phê bình. Theo Luật Dự trữ Liên bang, Fed có quyền cung cấp những khoản cho vay "trong tình huống bất thường và cấp thiết" miễn là các khoản cho vay "đảm bảo thỏa mãn các Ngân hàng Dự trữ Liên bang", nghĩa là chừng nào Fed còn không muốn bất cứ sự mất mát nào. Nhưng công bằng mà nói, khi khủng hoảng xuống quá sâu, một số khoản cho vay khẩn cấp của Fed đã vi phạm tuyên bố chính thức này. Khả năng thanh toán của các tổ chức như AIG và Bank of America bị nghi ngờ. Nhưng khả năng thanh toán của một ngân hàng có thể bản thân nó lại phụ thuộc vào sự sẵn sàng can thiệp của Fed. Brian Madigan, cựu quan chức cấp cao của Fed, đã đưa ra lập luận như vậy ngay sau cuộc khủng hoảng, và cũng viết rằng các nguyên tắc của Bagehot "cần được giải thích và áp dụng vào thế giới thực". Có thể hiểu rằng ông đang nói bênh vực vị chủ tịch. Khi hệ thống tài chính đang mấp mé bờ vực sụp đổ, các gói giải cứu dù sao vẫn là con quỷ hiền hơn trong hai con quỷ.
Ngay cả các nhà kinh tế xu hướng cánh hữu cùng hầu như đều cho Bernanke điểm cộng với những hành động của ông trong thời kỳ hoảng loạn tài chính. Làn khói "chiến tranh" dày đặc, và ông đã cố gắng tránh để mất tiền của người đóng thuế. Nhưng trong giai đoạn thứ hai - nhằm vực dậy nền kinh tế, và cải thiện tỷ lệ thất nghiệp - ông đã nhận được phản ứng giận dữ của các nhà tư tưởng từ cả hai phía. Ngay cả Ủy ban Thị trường mở của Fed, nhóm những người hoạch định chính sách lãi suất, cũng mỗi người một ý. Trong thời kỳ của Greenspan, đặc biệt là khi ảnh hưởng của vị chủ tịch tăng lên, cơ quan này nói với một giọng điệu chung, tàn thành mọi điều ngài chủ tịch muốn. Ủy ban của Bernanke là một mớ hỗn độn tiền tệ - phần vì ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến trái chiều, và phần vì quan điểm còn chia rẽ sâu sắc. Trong khi Greenspan chỉ phải nhận một lá phiếu bất đồng ở đâu đó, Bernanke lại phải lĩnh tới 32 lá phiếu này, bao gồm ba người bất đồng chỉ trong riêng một cuộc họp. Điều này chưa từng xảy ra trong suốt 20 năm trước đó.
Hầu hết những người bất đồng với Bernanke là cánh diều hâu, trừ Charles Evans, chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Bank of Chicago, Cục dự trữ Liên bang, đã hai lần không đồng quan điểm vì ông nghĩ Fed nên sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn cho tới khi thị trường việc làm phục hồi trở lại. Janet Yellen, phó chủ tịch Fed, và William Dudley, chủ tịch Fed New York, cũng đang ngả theo hướng tăng kích thích. Chưa từng có lãnh đạo Fed nào trước đó phải đương đầu với sự chia rẽ nội bộ như vậy.
Tình thế khó khăn của Bernanke xuất phát từ thực tế, khác với các ngân hàng trung ương trên thế giới, Fed nhận được sự ủy quyền kép - theo luật pháp, nó có trách nhiệm "thúc đẩy việc làm tối đa" đồng thời đảm bảo "giá cả ổn định". Ngân hàng Trung ương châu Âu, ngược lại, chỉ có nhiệm vụ quan tâm tới lạm phát. Đó là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương châu Âu lại hai lần nâng lãi suất trong năm 2011, khi châu Âu tiến dần đến miệng hố khủng hoảng và đứng trước nguy cơ vỡ nợ.
Nguyên nhân hình thành của Liên minh châu Âu là siêu lạm phát ở Đức những năm 1920, điều mà từ đó đã thôi thúc các ngân hàng trung ương Lục địa già luôn chống lại việc in thêm tiền. Ở Frankfurt, khái niệm "người cho vay cuối cùng", trước này vẫn không được ưa chuộng. Với Cục Dự trữ liên bang Mỹ, nguyên nhân thành lập là một loạt những cuộc khủng hoảng bắt đầu từ thế kỷ 19 và tích tụ lại trong cuộc Đại suy thoái. Sau sự giải thể ngân hàng của chủ tịch Biddle vào những năm 1930, "tiền" ở Mỹ bao gồm tất cả các giấy bạc mà các ngân hàng in ấn và người dân đồng ý nắm giữ. Ngay cả sau nội chiến, khi tiền được đồng nhất, nó cũng thường là một thứ hàng hóa khan hiếm, và những hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng cũng thường xuyên xảy ra.
Fed được thành lập năm 1913, như một tấm lưới chặn của hệ thống tài chính. "In tiền" - lời cáo buộc mà Rick Perry nhằm vào Bernanke - là một phần chức năng của ngân hàng từ khi sinh ra. Tiền vẫn bao gồm các giấy bạc ngân hàng, chỉ khác là hiện giờ ngân hàng đó có tên là Cục dự trữ Liên bang. Fed dường như đã hoàn thành lời hứa trong thế chiến thứ nhất, bơm hàng trăm triệu đô la khẩn cấp vào hệ thống tài chính. Trong Đại suy thoái, vì những lý do mà cho tới nay còn gây tranh cãi, nó đã thất bại. Bernanke rõ ràng đã muốn tránh cái sai lầm lớn nhất mà các ngân hàng châu Âu đã phạm phải trong giai đoạn Đại suy thoái. Thế nhưng, thất nghiệp vẫn cao, đặt ra câu hỏi cho một số nhà kinh tế học, đặc biệt thuộc phe cánh tả, về việc Fed đã hoàn thành nhiệm vụ hay chưa.
Bernanke chủ yếu vẫn khống chế lạm phát ở quanh mức 2% một năm, cũng là mức ông muốn duy trì - không quá cao đến mức đe dọa thổi bùng lạm phát, nhưng đủ để tạo một vùng đệm giúp các nhà hoạch định chính sách có thể phản ứng nếu lạm phát có dấu hiệu đi xuống và nguy cơ dẫn tới giảm phát. Krugman và nhiều người khác cho rằng Fed nên khuyến khích tăng lạm phát lên cao hơn để giải quyết dứt điểm vấn đề thất nghiệp cao. Lý do này có thể hiểu ở một số cấp độ. Dĩ nhiên, in tiền không tạo ra việc làm. Nhưng do lương khó có thể bị hạ xuống, nên giá hàng hóa cao hơn có thể giúp giới chủ có đủ tiền để thuê lao động. Đơn cử, khi tình hình trở nên khó khăn, McDonald không ngần ngại hạ giá bán bánh hamburger, nhưng cũng khó có thể giảm tiền lương. Thay vào đó, họ thuê ít lao động hơn (đó là lý do tại sao nền kinh tế đã mất tới 8,5 triệu việc làm trong giai đoạn suy thoái). Lạm phát là một cách cắt giảm chi phí lương khó nhìn thấy rõ hơn. Người lao động nghĩ họ vẫn kiếm đượng ra ngần ấy tiền, nhưng do đồng USD mất giá, chủ thuê lao động có thể dễ dàng xoay xở lương cho họ hơn.
Cách thứ hai lạm phát có thể có ích cho nền kinh tế là nó khiến cho việc vay mượn và chi tiêu trở nên hấp dẫn hơn (người đi vay có thể hoàn trả nợ bằng những đồng đôla rẻ hơn). Cũng với lý do này, lạm phát cũng đem lại lợi ích cho những người vốn đang mắc nợ - chẳng hạn như những người đi vay thế chấp. Bằng cách thúc đẩy nhanh quá trình giảm nợ của các hộ gia đình Mỹ, lạm phát có thể gỡ khó cho thị trường nhà đất và đưa Mỹ nhanh chóng trở lại với kiểu chi tiêu và lao động bình thường hơn. Kenneth Rogoff, một chuyên gia kinh tế của Harvard và từng có thời gian công tác tại Fed, đã đề nghị Bernanke cố gắng nâng mức lạm phát lên trong ngưỡng từ 4% đến 6%.
Nhưng cũng có nhiều lý do cho thấy cần phải thận trọng với những "đơn thuốc" này. Cũng giống như khi lạm phát đem lại lợi ích cho người đi vay, nó lại gây thiệt hại cho người chủ cho vay. Ngân hàng và người nắm giữ trái phiếu có cảm giác bị lừa bởi tiền cho vay của họ được trả lại bằng những đồng tiền có giá trị thấp hơn. Tương tự, những người có tiền tiết kiệm cố định, như người về hưu, cũng chịu tình cảnh chung với tiền tiết kiệm của họ. Tổng thống Grover Cleveland (1837 - 1908), một "chiến sĩ" trong cuộc chiến chống lạm phát (ở thời của ông, lạm phát xảy ra do giá bạc giảm nhanh), đã miêu tả, đó giống như một việc dâng tiền cho kẻ trộm. Dĩ nhiên, có người cũng được lợi từ kẻ trộm này - ở thời của Cleveland, là những nông dân khi giá nông phẩm cao hơn; còn ở thời điểm hiện nay, đó là những người thất nghiệp. Lạm phát khó có thể gây ra thất nghiệp, mà giúp tạo ra một sự đánh đổi, dẫn tới kẻ thắng và người thua. Nhưng sự đánh đổi này chỉ mang tính tạm thời. Cuối cùng, lương cũng bắt kịp với việc in tiền. Đến khi nền kinh tế đã vận hành với đúng tiềm năng, thì việc thả tiền từ trên trời xuống sẽ không tạo thêm được việc làm. Nó sẽ chỉ gây lạm phát.
Bernanke đã cân nhắc kỹ lưỡng về lập luận của Krugman - Rogoff. Trên thực tế tồn tại một khó khăn. Chính sách của Fed có hiệu quả một phần nhờ cách họ để cho thị trường làm những công việc của Fed (nếu Fed mua trái phiếu, các nhà kinh doanh cũng muốn làm điều tương tự với tư cách là bộ phận của thị trường mua lại trái phiếu giống các ngân hàng trung ương). Nhưng bất kỳ chính sách nào được lựa chọn bởi ít hơn tỷ lệ đa số 7/3 trong Ủy ban Thị tường mở của Fed sẽ không được thị trường coi là một chính sách tốt, có khả năng kéo dài, và Bernanke rất khó đảm bảo giành được tỷ lệ cao vào hoàn cảnh hiện nay. "Không ngân hàng trung ương nào sẽ làm như vậy", Mankiw nói về việc nâng mức mục tiêu lạm phát; phản ứng chính trị sẽ trở nên rất nghiêm trọng. (Khi Mankiw, một nhà kinh tế học của Harvard, viết một loạt bài đặt ra khả năng nâng mức mục tiêu lạm phát, Drew Faust, chủ tịch của trường đại học này, đã nhận được không ít đơn thư yêu cầu cách chức Mankiw).
Điều này có vẻ đã khẳng định luận đề của Krugman rằng Bernanke muốn lạm phát tăng, nhưng ông lại quá thận trọng. Nhưng sau khi nói chuyện một hồi với vị chủ tịch (nhìn chung ông không muốn được tôi trích dẫn những gì ông nói về vấn đề này), tôi nghĩ rằng, mặc dù Bernanke tôn trọng những lập luận của giới nghiên cứu về nâng mức lạm phát, ông lại thấy hợp lý hơn nếu không làm như vậy. Thứ nhất, ông lo lạm phát một khi đã tăng lên, khó có thể kiềm chế lại. Fed tạo ra lạm phát bằng cách bơm thêm tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng (lãi suất giảm là cách giúp thị trường tăng lượng tiền tệ). Nếu quá nhiều tiền đổ vào hệ thống, đến mức lương và giá cả đều đồng loạt tăng, đà tăng này sẽ có thể tự tồn tại. Bernanke nói với tôi: "Quan niệm rằng chúng ta có thể nâng mức lạm phát một cách an toàn và sau đó kiểm soát nó, rất cần được xem xét lại".
Thứ hai, nâng mức lạm phát cũng không hề dễ dàng. Lạm phát không phải cho phép tăng thì sẽ tăng - theo chỉ dụ của ngân hàng trung ương. Mà thay vào đó, Fed còn phải thuyết phục hàng triệu người dân chi tiêu nhiều hơn và hàng chục nghìn doanh nghiệp nâng giá sản phẩm. Và lạm phát sẽ không tăng nếu người dân nghĩ việc nới lỏng tiền tệ chỉ mang tính tạm thời. Tiền từ tín dụng, và vay mượn phụ thuộc vào kỳ vọng tương lai. Theo lý thuyết, thị trường xác lập mức lãi suất dài hạn để phản ánh tổng mức lãi suất ngắn hạn kỳ vọng trong tương lai. Vì thế biện pháp để giảm lãi suất dài hạn là phải thuyết phục người dân rằng lãi suất ngắn hạn (do Fed kiểm soát) sẽ duy trì ở mức thấp trong vô thời hạn. Như Bernanke hiểu rõ, vấn đề này tạo ra vô khối câu chuyện, mà nội dung chính trong đó là Fed sẽ phải đích thân tự nhận mình là "vô trách nhiệm". Nói cách khác, Fed sẽ phải nói, "ngay cả khi giá cả bắt đầu tăng, ngay cả khi lạm phát bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát, chúng tôi sẽ vẫn giữ lãi suất ở mức gần bằng không". Đó là điều đã gây ra lạm phát của những năm 1970: người dân nghĩ lạm phát sẽ tăng mãi, và tinh thần đi vay để chi tiêu càng trở nên ăn sâu. Nếu Bernanke phải tạo ra cái bầu không khí đó một lần nữa, sẽ rất khó để chặn nó lại.
Theo tôi hiểu, Bernanke là một ông chủ ngân hàng quá tỉnh táo nên không muốn liều lĩnh với uy tín của Fed trong vấn đề lạm phát. Quan điểm của ông thể hiện một sự khác biệt với các đồng nghiệp học giả, bởi vì, trong thế giới như các học giả thiên tả miêu tả, nâng mức lạm phát là điều duy nhất có thể phát huy tác dụng khi nền kinh tế có xu hướng đông cứng. Bernanke nghĩ ông có nhiều công cụ khác. Đầu tiên, dĩ nhiên, là nới lỏng định lượng. Thay vì hạ mức kỳ vọng lãi suất ngắn hạn, chính là cách mà Fed hay vận dụng, ông tiến hành nới lỏng định lượng, bao gồm sự can thiệp trực tiếp vào lĩnh vực thị trường tín dụng dài hạn. Bằng việc mua lại các chứng khoán dài hạn, Fed muốn giảm chi phí thế chấp, nợ doanh nghiệp... Tác động tới lãi suất dài hạn là một động thái tất yếu, bởi lãi suất ngắn hạn vốn đã gần bằng không. Nhưng nới lỏng định lượng có tạo ra nhiều ảnh hưởng hay không còn đang được tranh cãi.Chính sách rõ ràng đã hiệu quả trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp, khi nó giúp chống đông cứng thị trường tín dụng, cho chép các doanh nghiệp và cá nhân tiếp tục vay tiền. Tuy nhiên, ngay cả những người ủng hộ Bernanke cũng thừa nhận rằng kể từ khi những thị trường này hoạt động trở lại, việc tiếp tục mua trái phiếu dài hạn chỉ mang lại những kết quả khiêm tốn. Mark Gertler, một nhà kinh tế học tại Đại học New York và cũng là bạn của Bernanke, nói, đợt nới lỏng định lượng lần hai có thể chỉ làm cho mũi kim dịch chuyển chỉ chừng ¼ điểm phần trăm. Nhưng ông cũng đánh giá cao chính sách bởi nó giúp duy trì lạm phát không rơi xuống mức thấp nguy hiểm - "một thành tựu không hề nhỏ". Fed dường như cũng đã đẩy nhanh những đột biến về giá vàng, giá dầu và các hàng hóa khác vào năm ngoái. Và điều đó, với những người bảo thủ, chính là vấn đề.
Những chỉ trích từ phe hữu là tiếp tục các biện pháp kích thích kinh tế vừa không cần thiết, do khủng hoảng tài chính đã qua rồi, vừa gây ra lạm phát. Allan Meltzer, một nhà kinh tế học và sử gia của Fed, nói Bernanke đang cố gắng làm những gì vượt quá khả năng của ông. "Thất nghiệp cao hiện nay không phải do vấn đề tiền tệ", Meltzer nói, nghĩa là Mỹ đã vượt qua điểm mà việc tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ kích thích doanh nghiệp tuyển người. Bernanke liên tục bị đổ lỗi là đã thử nghiệm quá nhiều biện pháp khắc phục thiếu hiệu quả, mang lại quá ít thành công. Có lẽ, ông sẽ nhận lỗi trong vấn đề này. Ông nói ông ngưỡng mộ cách tiếp cận toàn diện của Franklin Roosevelt trong cuộc chiến chống Đại suy thoái, một cuộc chiến không mang tính lý tưởng như nhiệt huyết của những con người nhiệt tình. Nhiều người lo ngại bảng quyết toán của Fed, 2,9 nghìn tỷ USD, là một dạng củi mồi gây lạm phát mà một ngày nào đó sẽ bắt lửa.
Cơ chế đánh lửa như sau: mỗi lần Fed mua một chứng khoán kho bạc hay trái phiếu đảm bảo bằng thế chấp, nó sẽ công nhận ngân hàng bán với một khoảng dự trữ bằng lượng tiền đó. Dự trữ ngân hàng tồn tại dưới những ký hiệu điện tử, nhưng chúng đại diện cho tiền thật sẵn có để cho vay, và phần lớn số tiền đó nhàn rỗi vào hôm nay, một phần vì nhu cầu cho vay yếu. Hiện tại, nếu ngân hàng phải cho vay toàn bộ số dự trữ dôi dư, dưới dạng tiền mặt, cung tiền sẽ gần như tăng gấp ba chỉ sau một đêm, và giá chiếc bánh burger sẽ chắc chắn cũng như vậy. Và nếu Fed gặp phải sự công kích dữ dội và chọn hấp thụ hết hết số dự trữ dôi dư này bằng cách bán nhanh các tài sản của mình, dòng lũ sẽ tràn vào thị trường, khiến lãi suất tăng cao và làm tiêu tan sự phục hồi.
Bernanke đã nghĩ về điều này - thực tế, ông đã nghĩ làm sao thoát khỏi cuộc nới lỏng định lượng gần như ngay từ ngày ông bắt đầu đưa ra. Năm 2008, khi đề nghị và nhận được đặc quyền của Quốc hội, thanh toán lãi số tiền dự trữ cho các ngân hàng. Hiện nay, mức lãi suất đó là 0,25%. Nhưng có thể nói, nhu cầu cho vay tăng lên (như đã diễn ra gần đây dù chậm) và do đó các ngân hàng có thể làm ăn có lãi với mức lãi suất cao hơn. Fed sẽ được quyền tự do nâng mức lãi suất, kích thích việc cho vay mới bằng cách khuyến khích ngân hàng giữ lại số tiền dự trữ nhàn rỗi của họ tại Fed. Theo cách nói đơn giản của tiếng Anh, Bernanke dự định trao thưởng cho các ngân hàng giữ được một số tiền trong ngân quỹ, thứ sẽ cho ông thời gian dần điều chỉnh lại bảng quyết toán. Không ai biết liệu canh bạc này có thể có tác dụng hay không.
Tuy nhiên, Fed luôn gặp phải thách thức khi thắt chặt tín dụng sau giai đoạn nới lỏng. Việc Fed tích lũy trái phiếu dài hạn hơn là ngắn hạn là một sự đổi mới tương đối "lành tính", ít nguy hiểm hơn nhiều nhà phân tích nhận định. Cho tới nay, cánh diều hâu vẫn nhìn nhận lạm phát từ mọi góc độ. Cho tới nay, họ vẫn sai và Bernanke vẫn đúng. Lý do những người chỉ trích không ưa nới lỏng định lượng, theo tôi nghĩ, không liên quan mấy tới cơ chế của dự trữ ngân hàng mà có liên hệ mật thiết hơn đến nỗi luyến tiếc một Cục dự trữ liên bang thận trọng, và mang tính truyền thống hơn. Những người phê bình nới lỏng định lượng muốn Fed nhỏ hơn và không vươn quá xa. Họ muốn người tiêu dùng giảm nợ nần, hạn chế vay mượn và chi tiêu nhiều, và họ sợ nới lỏng định lượng sẽ tạo ra một bóng bóng tiêu dùng mới. Bernanke, thực tế, dễ dãi ở điểm này; ông phát biểu trước Quốc hội hồi tháng 2, "Chính sách thuế và tiêu dùng của đất nước chúng ta nên tăng cường khuyến khích lao động và tiết kiệm", nhưng lãi suất gần bằng không của ông rõ ràng đã hạn chế người dân gửi tiền tiết kiệm.
Việc mua các chứng khoản bảm đảm bằng thế chấp của Fed gây tranh cãi còn vì một lý do khác. Những người phê bình cho rằng đó là những khoản mua ngoài thẩm quyền quy định của Fed. Bernanke hy vọng những lần mua như vậy sẽ giúp hạ mức lãi suất thế chấp, khôi phục lại ngành nhà đất và tạo việc làm trong ngành xây dựng. Nhưng bất kỳ khoản đầu tư chính phủ nào phục vụ ngành nhà đất cũng chắc chắn sẽ gây bất lợi cho ngành khoa học vũ trụ, bán lẽ và bất kỳ ngành nào khác không liên quan đến nhà đất. Jeffrey Lacker, vị chủ tịch diều hâu của Ngân hàng dự trữ liên bang Richmond, nói đây là một cách phân bổ tín dụng, chứ không phải là chính sách tiền tệ. Fed, ông lo ngại, đang quá hiệp đồng với giới điều hành doanh nghiệp. And Warsh, cựu thống đốc của Fed, người là đồng minh mạnh mẽ, nếu không nói là hay tranh cãi, của Bernanke trong suốt cuộc khủng hoảng, nói Fed không nên là "xưởng sửa chữa" cho những chính sách tài khóa thất bại, một cánh tay phụ của một quốc hội bất lực. Warsh nói với tôi, sự can thiệp liên tục của Fed đã làm mờ đi bảng điều khiển và che khuất các tín hiệu của khu vực tư nhân. "Chúng ta đã cố làm giả sự phục hồi của thị trường nhà đất trong bốn năm rưỡi qua", ông nói, nghĩa là mỗi lần mua chứng khoán của Fed lại nâng thị trường lên trên mức vốn có của nó.
Theo lối suy nghĩ này, những vụ phá sản và tịch thu tài sản đóng vai trò phục hồi - trả lại tài sản cho thị trường vừa mới hết nợ và định giá hợp lý. Lý do này có một sức lôi cuốn đầy cảm xúc - và gần như mang tính tôn giáo, xu hướng giảm giá tài sản là một hình thức chuộc lỗi của thị trường. Bernanke bắt gặp ý tưởng này hồi tháng 11, khi ông tới thăm các gia đình binh lính ở Fort Bliss, El Paso. Một phụ nữ hỏi ông "liệu chúng ta có nên tìm cách đưa chúng ta trở lại nơi chúng ta từng trải qua... khi nói đến việc người dân đã sống, mua nhà, tiến kiệm và đầu tư như thế nào?". Vị chủ tịch nín thở và thừa nhận "đó là một câu hỏi rất sâu sắc". Câu trả lời của ông đã thể hiện như vậy. Trong khi nhấn mạnh ông không muốn quay trở lại với việc nhà đất bị định giá quá cao và tiêu chuẩn thế chấp nỏng lẻo, ông nói thêm, "Tôi không tin vào lý thuyết của Kinh Cựu ước về chu kỳ kinh doanh. Tôi nghĩ, nếu chúng tôi có thể giúp người dân, chúng tôi cần phải giúp họ".
Tôi đã thuyết phục ông đi sâu hơn trong một cuộc phỏng vấn, ông nói: "Có một luận điểm cho rằng cách duy nhất để khôi phục nền kinh tế là thanh lọc những thứ dư thừa trước đó. Tôi không nói rằng chẳng có sự mất cân bằng nào nên được điều chỉnh. Nghĩa là, chính sách vẫn cần cải thiện ảnh hưởng của những sự tái cân bằng cần thiết đối với công chúng, để giúp rút ngắn lại thời gian suy thoái. Một sự suy giảm mạnh số lượng việc làm sẽ làm chậm lại quá trình tái cân bằng và giảm nợ hơn là tăng tốc quá trình ấy; người dân không có thu nhập để thu xếp nợ nần. Do vậy, lý do ở đây là: nếu bạn có thể, hãy cố gắng rút ngắn lại quá trình bằng cách thôi thúc các ngân hàng chấp nhận chịu đựng và điều chỉnh, tái cơ cấu vốn. Rõ ràng, bạn cần làm sao để bảng cân đối kế toán của ngân hàng lành mạnh, và người tiêu dùng cá nhân lành mạnh - nhưng việc để hệ thống mắc két trong mức thất nghiệp cao cùng tỷ lệ phá sản và tịch thu tài sản cao là một cách phi hiệu quả để đạt được điều đó".
Bernanke bảo thủ hơn những nhà phê bình Cộng hòa tưởng, nhưng như trong một tuyên bố công khai, ông nhận thấy việc để hàng triệu người tiếp tục thất nghiệp là "không thể chấp nhận được". Ông đặc biệt lo ngại về việc nhiều người đã mất việc quá sáu tháng. Giống như Franklin D. Roosevelt, ông sẵn sàng thử nghiệm những gì hiệu quả, hay có thể phát huy tác dụng, và điều này dẫn ông đến sự mâu thuẫn với các nhà kinh tế học thuần túy. Ông không thấy bằng chứng của lạm phát, nhưng ông thấy những khó khăn kinh tế, và do đó những khó khăn này nhận được nhiều quan tâm hơn. Mặc dù ông thừa nhận tiềm tàng nguy cơ lạm phát, ông vẫn nói với chương trình 60 Minutes hồi tháng 12/2010 rằng ông "chắc chắn 100%" về khả năng kiểm soát lạm phát của mình (một sự chắc chắn đầy ngạc nhiên và gây khó chịu đối với một một ông chủ ngân hàng vốn hay khiêm nhường này). Khi tôi đưa ra lý lẽ rằng việc mua các tài sản bảo đảm bằng thế chấp - ngoại trừ ảnh hưởng gây lạm phát - sẽ dẫn tới sự phân bổ tín dụng không hợp lý. Bernanke nhíu mày mệt mỏi, như thể các điểm tốt của lý thuyết tiền tệ như thể đã rõ rành sai về thất nghiệp. "Tôi sẽ nói rằng các tài sản bảo đảm bằng thế chấp chúng tôi mua vào có thể sẽ đưa thị trường dịch chuyển gần hơn chứ không phải xa hơn đến tình trạng hiệu quả", ông trả lời tôi.
Ngoài sự can thiệp trực tiếp vào thị trường, Bernanke còn đang cố gắng truyền tải ý định duy trì mức lãi suất thấp của Fed và công khai các tình huống sẽ khiến Fed phải nâng lãi suất. Cuối năm ngoái, Ủy ban của Fed, cơ quan đã ấn định mức lãi suất ngắn hạn một cách nhanh chóng, đã đi tiếp một bước nhỏ khi tuyên bố sẽ công khai không chỉ mức lãi suất hiện hành, mà còn cả những kỳ vọng lãi suất tương lai của các ngân hàng thành viên. Rồi đến tháng Giêng năm nay, lo lắng trước nguy cơ nền kinh tế lại bị kéo lùi trở lại từ những nguyên do bắt nguồn từ châu Âu, thậm chí là đã có những mầm mống xuất hiện ở Mỹ, Ủy ban này đã quyết định có một bước đi lớn. Mặc dù trước đó dự báo lãi suất sẽ giữ ở mức gần bằng không đến giữa năm 2013, hiện tại cơ quan này lại dự báo lãi suất sẽ duy trì thấp cho tới cuối năm 2014. Điều quan trọng là, Bernanke nói ông có thể sống chung với việc lạm phát tăng lên một chút trong thời gian ngắn nếu nó giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. "Chúng tôi không phải là những người theo chính thể chuyên chế", ông nói trong một cuộc họp báo, nghe có vẻ rất giống như một người hâm mộ Roosevelt. Tuần sau đó, khi Bernanke trả lời chất vấn tại Đồi Capital, Paul Ryan, Chủ tịch Hội đồng Ngân sách Quốc hội, gây sức ép với Bernanke: "Dường như ông đang rời xa mục tiêu lạm phát... mà Fed sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn để theo đuổi nghĩa vụ về việc làm". Bernanke phủ nhận điều này. Hai phần trăm vẫn là mục tiêu, ông nói, nhưng đó là mục tiêu trung hạn. "Chính sách tiền tệ hoạt động với một độ trễ. Chúng ta không thể đạt được nó hằng ngày, hằng tuần, nhưng trong một giai đoạn chúng tôi muốn đưa lạm phát luôn quay trở lại mức 2%. Chúng tôi sẽ không chủ động nâng mức lạm phát". Từ trước đến nay, chưa bao giờ có vị lãnh đạo Fed nào công khai về mục tiêu lạm phát của mình đến thế.
Sự đề cao tính minh bạch của Bernanke dựa trên quan điểm gần gũi với các nhà kinh tế học tài chính rằng con người điều chỉnh một cách có lý chí hành vi của họ tương ứng với các kỳ vọng; do vậy, dự báo của Fed về kết quả thị trường có thể giúp đạt được như vậy. Lý thuyết này có thể đúng một phần, và chưa thể gọi là hoàn thiện. Trước hết, người dân không phải lúc nào cũng phản ứng lại trước các thông tin bằng lý trí. Thứ hai, Fed chưa bao giờ giỏi dự báo tình hình nền kinh tế, do vậy công chúng thường không đánh giá cao các dự báo của cơ quan này và những kỳ vọng chính sách xuất phát từ đó. Dự báo của Bernanke trong tháng Giêng rằng nền kinh tế sẽ vẫn yếu, và cần giai đoạn hồi sức kéo dài, có thể không có cơ sở. Ngay cả khi ông mới đây đã hiểu được thấu đáo hơn, thì nhiệm kỳ của ông cũng sẽ hết hạn vào tháng 1/2014; thị trường khó có thể sẽ đánh giá cao khả năng dự báo chính sách của ông trong năm sau khi ông thôi giữ chức vụ. (Dù có thể tổng thống Obama, nếu tái đắc cử, sẽ vẫn bổ nhiệm ông làm nhiệm kỳ thứ ba).
Tháng Giêng, Fed cũng cho biết sẽ xem xét tiếp tục mua trái phiếu nếu quá trình phục hồi mất dần động lực. Triển vọng đó sẽ là chủ để tranh cãi gay gắt trong giới am hiểu về tiền tệ, nhưng phải thừa nhận rằng, nhìn chung, những lần nới lỏng định lượng mới đang mất dần tính hiệu quả. Đợt tiếp theo, nếu xảy ra, sẽ có khả năng không tạo ra nhiều ảnh hưởng. Tóm lại, ngay cả một Bernanke giàu sức tưởng tượng và sáng tạo cũng gần như đã cạn kiệt các lựa chọn. Thế nhưng, tín dụng vẫn đang chảy; tiền ngắn và dài hạn đều rẻ; và nền kinh tế đang cải thiện. Blanchard, chuyên gia tư vấn kinh tế của IMF, người đã cùng học với Bernanke tại MIT, mới đây đã nói với tôi, "Tôi nghĩ ông ấy đã làm những gì có thể, đủ để có thể gọi là tốt".
Quan niệm của Bernanke về công việc của một người điều hành ngân hàng trung ương, Blanchard chỉ ra, đã đầy đủ và toàn diện hơn của những người đồng nghiệp của ông ở châu Âu. Thực tế, Ngân hàng Trung ương châu Âu mới đây đã bắt đầu học tập cách tiếp cận của Fed để đối phó với cuộc khủng hoảng của chính mình. Đến giữa mùa đông, thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ sau khi kết thúc suy thoái. Gần như chắc chắn vào thời điểm Bernanke rời nhiệm sở, tình hình ở Mỹ sẽ tốt hơn ở Lục địa già.
Cuối cùng, di sản của Bernanke sẽ phụ thuộc vào việc ông có thể hoàn toàn thoát khỏi cuộc tranh luận về thế chấp mà không để lại một cuộc tranh cãi mới hay thổi bùng ngọn lửa lạm phát khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát hay không. Alan Greenspan về hưu giống như vị hoàng tử của ngân hàng trung ương, nhưng uy tín của ông đã giảm sút nhanh chóng do bong bóng xì hơi trong nhiệm kỳ của Bernanke. Khi còn đảm đương chức vụ, Paul Volcker đặc biệt gây nhiều tranh cãi bởi các chính sách diều hâu của ông; nhưng hiện tại, ông thực tế gần như đã được phong thánh. Vincent Reinhart, người từng làm việc dưới thời Greenspan và Bernanke với vai trò là trợ lý tiền tệ cấp cao và hiện đã về hưu, cho rằng tôi đang viết về Bernanke sớm 5 năm. Chắc chắn, không ai biết lạm phát hay thất nghiệp sẽ như thế nào trong 5 năm nữa. Thay vì dự đoán đoán, tôi muốn nhắc lại lời khen của Hank Paulson, cựu Bộ trưởng Tài chính, người mới đây đã nói với tôi: "Tôi không biết người ta kỳ vọng Ben sẽ làm những gì. Với tôi, điều ông làm được là điều khá ấn tượng. Ai đoán được khi nào ông đến Washington chúng ta lại may mắn đến vậy khi có một người sẵn lòng nghĩ khác đi và đối phó với cuộc khủng hoảng chưa từng có này?"
Những sự chỉ trích bên trong nội bộ khó có thể hiểu được, nhưng đó là một phần mặt trái của niềm tin phổ biến rằng chúng ta đã mong muốn có một Cụ dự trữ Liên bang hiện đại. Vào thời điểm Nicholas Biddle, và ngay cả trong những năm Fed mới thành lập, giấy bạc ngân hàng, nghĩa là các giấy tờ nợ, có thể được hoàn trả lại lấy thứ gì đó có giá trị, thường là vàng. Hiện tại, đồng đôla chỉ có thể đổi được lấy đồng đôla. Đó là những gì sẽ gây báo động những người theo quan điểm nguyên gốc.
Những người theo quan điểm nguyên gốc không hài lòng với nới lỏng định lượng cũng không vui vẻ với đồng tiền co giãn và với chính đồng bạc giấy; không thứ gì khác, ngoài vàng có thể làm họ hài lòng được. Dĩ nhiên, điều này đã đúng trong 40 năm qua, kể từ khi Mỹ rút khỏi chế độ bản vị vàng - nhưng chỉ Bernanke phải triển khai mạnh mẽ như vậy những nhiệm vụ nguyên gốc của Fed là "người cho vay cuối cùng" và "người tạo ra đồng tiền co giãn". Và ông đã ở đó, trên một chiếc máy bay, ném những đồng tiền xuống. Đây là điều đáng ra Fed đã nên làm vào năm 1933. Tuy nhiên, dù người Mỹ có đang cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng thực tế cũng gợi ra trong họ một sự băn khoăn, âu lo rằng chỉ riêng một tiến sĩ hay một nhóm các có thể tìm ra được bí mật về một cung tiền hợp lý hay không, đặc biệt trong nền kinh tế năng động như của Mỹ hiện nay. Bernanke không sử dụng vàng làm một thước đo; ông không lấy tiền trong lưu thông làm cơ sở quyết định lãi suất, như Volcker đã làm, hay thử làm. Người thầy của ông, Milton Friedman, suy nghĩ việc điều chỉnh lãi suất là việc hết sức nan giải, nhưng tốt hơn hết vẫn là tạo ra nhiều việc làm thay vì chiếc máy tính hơn. Nhưng Bernanke tin con người có thể tìm ra được bí mật đó. Ông bám chặt khái niệm về lạm phát và dự đoán sẽ nó hướng đến đâu, tin tưởng vào đánh giá của mình sẽ cho ông biết khi nào nên tăng hay giảm tính thanh khoản. Và xa hơn những gì ông được công nhận hôm nay, lịch sử có thể sẽ lưu mãi thành công của Bernanke.
.Roger Lowenstein
Đình Ngân dịch
Cơ chế đánh lửa như sau: mỗi lần Fed mua một chứng khoán kho bạc hay trái phiếu đảm bảo bằng thế chấp, nó sẽ công nhận ngân hàng bán với một khoảng dự trữ bằng lượng tiền đó. Dự trữ ngân hàng tồn tại dưới những ký hiệu điện tử, nhưng chúng đại diện cho tiền thật sẵn có để cho vay, và phần lớn số tiền đó nhàn rỗi vào hôm nay, một phần vì nhu cầu cho vay yếu. Hiện tại, nếu ngân hàng phải cho vay toàn bộ số dự trữ dôi dư, dưới dạng tiền mặt, cung tiền sẽ gần như tăng gấp ba chỉ sau một đêm, và giá chiếc bánh burger sẽ chắc chắn cũng như vậy. Và nếu Fed gặp phải sự công kích dữ dội và chọn hấp thụ hết hết số dự trữ dôi dư này bằng cách bán nhanh các tài sản của mình, dòng lũ sẽ tràn vào thị trường, khiến lãi suất tăng cao và làm tiêu tan sự phục hồi.
Bernanke đã nghĩ về điều này - thực tế, ông đã nghĩ làm sao thoát khỏi cuộc nới lỏng định lượng gần như ngay từ ngày ông bắt đầu đưa ra. Năm 2008, khi đề nghị và nhận được đặc quyền của Quốc hội, thanh toán lãi số tiền dự trữ cho các ngân hàng. Hiện nay, mức lãi suất đó là 0,25%. Nhưng có thể nói, nhu cầu cho vay tăng lên (như đã diễn ra gần đây dù chậm) và do đó các ngân hàng có thể làm ăn có lãi với mức lãi suất cao hơn. Fed sẽ được quyền tự do nâng mức lãi suất, kích thích việc cho vay mới bằng cách khuyến khích ngân hàng giữ lại số tiền dự trữ nhàn rỗi của họ tại Fed. Theo cách nói đơn giản của tiếng Anh, Bernanke dự định trao thưởng cho các ngân hàng giữ được một số tiền trong ngân quỹ, thứ sẽ cho ông thời gian dần điều chỉnh lại bảng quyết toán. Không ai biết liệu canh bạc này có thể có tác dụng hay không.
Tuy nhiên, Fed luôn gặp phải thách thức khi thắt chặt tín dụng sau giai đoạn nới lỏng. Việc Fed tích lũy trái phiếu dài hạn hơn là ngắn hạn là một sự đổi mới tương đối "lành tính", ít nguy hiểm hơn nhiều nhà phân tích nhận định. Cho tới nay, cánh diều hâu vẫn nhìn nhận lạm phát từ mọi góc độ. Cho tới nay, họ vẫn sai và Bernanke vẫn đúng. Lý do những người chỉ trích không ưa nới lỏng định lượng, theo tôi nghĩ, không liên quan mấy tới cơ chế của dự trữ ngân hàng mà có liên hệ mật thiết hơn đến nỗi luyến tiếc một Cục dự trữ liên bang thận trọng, và mang tính truyền thống hơn. Những người phê bình nới lỏng định lượng muốn Fed nhỏ hơn và không vươn quá xa. Họ muốn người tiêu dùng giảm nợ nần, hạn chế vay mượn và chi tiêu nhiều, và họ sợ nới lỏng định lượng sẽ tạo ra một bóng bóng tiêu dùng mới. Bernanke, thực tế, dễ dãi ở điểm này; ông phát biểu trước Quốc hội hồi tháng 2, "Chính sách thuế và tiêu dùng của đất nước chúng ta nên tăng cường khuyến khích lao động và tiết kiệm", nhưng lãi suất gần bằng không của ông rõ ràng đã hạn chế người dân gửi tiền tiết kiệm.
Việc mua các chứng khoản bảm đảm bằng thế chấp của Fed gây tranh cãi còn vì một lý do khác. Những người phê bình cho rằng đó là những khoản mua ngoài thẩm quyền quy định của Fed. Bernanke hy vọng những lần mua như vậy sẽ giúp hạ mức lãi suất thế chấp, khôi phục lại ngành nhà đất và tạo việc làm trong ngành xây dựng. Nhưng bất kỳ khoản đầu tư chính phủ nào phục vụ ngành nhà đất cũng chắc chắn sẽ gây bất lợi cho ngành khoa học vũ trụ, bán lẽ và bất kỳ ngành nào khác không liên quan đến nhà đất. Jeffrey Lacker, vị chủ tịch diều hâu của Ngân hàng dự trữ liên bang Richmond, nói đây là một cách phân bổ tín dụng, chứ không phải là chính sách tiền tệ. Fed, ông lo ngại, đang quá hiệp đồng với giới điều hành doanh nghiệp. And Warsh, cựu thống đốc của Fed, người là đồng minh mạnh mẽ, nếu không nói là hay tranh cãi, của Bernanke trong suốt cuộc khủng hoảng, nói Fed không nên là "xưởng sửa chữa" cho những chính sách tài khóa thất bại, một cánh tay phụ của một quốc hội bất lực. Warsh nói với tôi, sự can thiệp liên tục của Fed đã làm mờ đi bảng điều khiển và che khuất các tín hiệu của khu vực tư nhân. "Chúng ta đã cố làm giả sự phục hồi của thị trường nhà đất trong bốn năm rưỡi qua", ông nói, nghĩa là mỗi lần mua chứng khoán của Fed lại nâng thị trường lên trên mức vốn có của nó.
Theo lối suy nghĩ này, những vụ phá sản và tịch thu tài sản đóng vai trò phục hồi - trả lại tài sản cho thị trường vừa mới hết nợ và định giá hợp lý. Lý do này có một sức lôi cuốn đầy cảm xúc - và gần như mang tính tôn giáo, xu hướng giảm giá tài sản là một hình thức chuộc lỗi của thị trường. Bernanke bắt gặp ý tưởng này hồi tháng 11, khi ông tới thăm các gia đình binh lính ở Fort Bliss, El Paso. Một phụ nữ hỏi ông "liệu chúng ta có nên tìm cách đưa chúng ta trở lại nơi chúng ta từng trải qua... khi nói đến việc người dân đã sống, mua nhà, tiến kiệm và đầu tư như thế nào?". Vị chủ tịch nín thở và thừa nhận "đó là một câu hỏi rất sâu sắc". Câu trả lời của ông đã thể hiện như vậy. Trong khi nhấn mạnh ông không muốn quay trở lại với việc nhà đất bị định giá quá cao và tiêu chuẩn thế chấp nỏng lẻo, ông nói thêm, "Tôi không tin vào lý thuyết của Kinh Cựu ước về chu kỳ kinh doanh. Tôi nghĩ, nếu chúng tôi có thể giúp người dân, chúng tôi cần phải giúp họ".
Tôi đã thuyết phục ông đi sâu hơn trong một cuộc phỏng vấn, ông nói: "Có một luận điểm cho rằng cách duy nhất để khôi phục nền kinh tế là thanh lọc những thứ dư thừa trước đó. Tôi không nói rằng chẳng có sự mất cân bằng nào nên được điều chỉnh. Nghĩa là, chính sách vẫn cần cải thiện ảnh hưởng của những sự tái cân bằng cần thiết đối với công chúng, để giúp rút ngắn lại thời gian suy thoái. Một sự suy giảm mạnh số lượng việc làm sẽ làm chậm lại quá trình tái cân bằng và giảm nợ hơn là tăng tốc quá trình ấy; người dân không có thu nhập để thu xếp nợ nần. Do vậy, lý do ở đây là: nếu bạn có thể, hãy cố gắng rút ngắn lại quá trình bằng cách thôi thúc các ngân hàng chấp nhận chịu đựng và điều chỉnh, tái cơ cấu vốn. Rõ ràng, bạn cần làm sao để bảng cân đối kế toán của ngân hàng lành mạnh, và người tiêu dùng cá nhân lành mạnh - nhưng việc để hệ thống mắc két trong mức thất nghiệp cao cùng tỷ lệ phá sản và tịch thu tài sản cao là một cách phi hiệu quả để đạt được điều đó".
Bernanke bảo thủ hơn những nhà phê bình Cộng hòa tưởng, nhưng như trong một tuyên bố công khai, ông nhận thấy việc để hàng triệu người tiếp tục thất nghiệp là "không thể chấp nhận được". Ông đặc biệt lo ngại về việc nhiều người đã mất việc quá sáu tháng. Giống như Franklin D. Roosevelt, ông sẵn sàng thử nghiệm những gì hiệu quả, hay có thể phát huy tác dụng, và điều này dẫn ông đến sự mâu thuẫn với các nhà kinh tế học thuần túy. Ông không thấy bằng chứng của lạm phát, nhưng ông thấy những khó khăn kinh tế, và do đó những khó khăn này nhận được nhiều quan tâm hơn. Mặc dù ông thừa nhận tiềm tàng nguy cơ lạm phát, ông vẫn nói với chương trình 60 Minutes hồi tháng 12/2010 rằng ông "chắc chắn 100%" về khả năng kiểm soát lạm phát của mình (một sự chắc chắn đầy ngạc nhiên và gây khó chịu đối với một một ông chủ ngân hàng vốn hay khiêm nhường này). Khi tôi đưa ra lý lẽ rằng việc mua các tài sản bảo đảm bằng thế chấp - ngoại trừ ảnh hưởng gây lạm phát - sẽ dẫn tới sự phân bổ tín dụng không hợp lý. Bernanke nhíu mày mệt mỏi, như thể các điểm tốt của lý thuyết tiền tệ như thể đã rõ rành sai về thất nghiệp. "Tôi sẽ nói rằng các tài sản bảo đảm bằng thế chấp chúng tôi mua vào có thể sẽ đưa thị trường dịch chuyển gần hơn chứ không phải xa hơn đến tình trạng hiệu quả", ông trả lời tôi.
Ngoài sự can thiệp trực tiếp vào thị trường, Bernanke còn đang cố gắng truyền tải ý định duy trì mức lãi suất thấp của Fed và công khai các tình huống sẽ khiến Fed phải nâng lãi suất. Cuối năm ngoái, Ủy ban của Fed, cơ quan đã ấn định mức lãi suất ngắn hạn một cách nhanh chóng, đã đi tiếp một bước nhỏ khi tuyên bố sẽ công khai không chỉ mức lãi suất hiện hành, mà còn cả những kỳ vọng lãi suất tương lai của các ngân hàng thành viên. Rồi đến tháng Giêng năm nay, lo lắng trước nguy cơ nền kinh tế lại bị kéo lùi trở lại từ những nguyên do bắt nguồn từ châu Âu, thậm chí là đã có những mầm mống xuất hiện ở Mỹ, Ủy ban này đã quyết định có một bước đi lớn. Mặc dù trước đó dự báo lãi suất sẽ giữ ở mức gần bằng không đến giữa năm 2013, hiện tại cơ quan này lại dự báo lãi suất sẽ duy trì thấp cho tới cuối năm 2014. Điều quan trọng là, Bernanke nói ông có thể sống chung với việc lạm phát tăng lên một chút trong thời gian ngắn nếu nó giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. "Chúng tôi không phải là những người theo chính thể chuyên chế", ông nói trong một cuộc họp báo, nghe có vẻ rất giống như một người hâm mộ Roosevelt. Tuần sau đó, khi Bernanke trả lời chất vấn tại Đồi Capital, Paul Ryan, Chủ tịch Hội đồng Ngân sách Quốc hội, gây sức ép với Bernanke: "Dường như ông đang rời xa mục tiêu lạm phát... mà Fed sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn để theo đuổi nghĩa vụ về việc làm". Bernanke phủ nhận điều này. Hai phần trăm vẫn là mục tiêu, ông nói, nhưng đó là mục tiêu trung hạn. "Chính sách tiền tệ hoạt động với một độ trễ. Chúng ta không thể đạt được nó hằng ngày, hằng tuần, nhưng trong một giai đoạn chúng tôi muốn đưa lạm phát luôn quay trở lại mức 2%. Chúng tôi sẽ không chủ động nâng mức lạm phát". Từ trước đến nay, chưa bao giờ có vị lãnh đạo Fed nào công khai về mục tiêu lạm phát của mình đến thế.
Sự đề cao tính minh bạch của Bernanke dựa trên quan điểm gần gũi với các nhà kinh tế học tài chính rằng con người điều chỉnh một cách có lý chí hành vi của họ tương ứng với các kỳ vọng; do vậy, dự báo của Fed về kết quả thị trường có thể giúp đạt được như vậy. Lý thuyết này có thể đúng một phần, và chưa thể gọi là hoàn thiện. Trước hết, người dân không phải lúc nào cũng phản ứng lại trước các thông tin bằng lý trí. Thứ hai, Fed chưa bao giờ giỏi dự báo tình hình nền kinh tế, do vậy công chúng thường không đánh giá cao các dự báo của cơ quan này và những kỳ vọng chính sách xuất phát từ đó. Dự báo của Bernanke trong tháng Giêng rằng nền kinh tế sẽ vẫn yếu, và cần giai đoạn hồi sức kéo dài, có thể không có cơ sở. Ngay cả khi ông mới đây đã hiểu được thấu đáo hơn, thì nhiệm kỳ của ông cũng sẽ hết hạn vào tháng 1/2014; thị trường khó có thể sẽ đánh giá cao khả năng dự báo chính sách của ông trong năm sau khi ông thôi giữ chức vụ. (Dù có thể tổng thống Obama, nếu tái đắc cử, sẽ vẫn bổ nhiệm ông làm nhiệm kỳ thứ ba).
Tháng Giêng, Fed cũng cho biết sẽ xem xét tiếp tục mua trái phiếu nếu quá trình phục hồi mất dần động lực. Triển vọng đó sẽ là chủ để tranh cãi gay gắt trong giới am hiểu về tiền tệ, nhưng phải thừa nhận rằng, nhìn chung, những lần nới lỏng định lượng mới đang mất dần tính hiệu quả. Đợt tiếp theo, nếu xảy ra, sẽ có khả năng không tạo ra nhiều ảnh hưởng. Tóm lại, ngay cả một Bernanke giàu sức tưởng tượng và sáng tạo cũng gần như đã cạn kiệt các lựa chọn. Thế nhưng, tín dụng vẫn đang chảy; tiền ngắn và dài hạn đều rẻ; và nền kinh tế đang cải thiện. Blanchard, chuyên gia tư vấn kinh tế của IMF, người đã cùng học với Bernanke tại MIT, mới đây đã nói với tôi, "Tôi nghĩ ông ấy đã làm những gì có thể, đủ để có thể gọi là tốt".
Quan niệm của Bernanke về công việc của một người điều hành ngân hàng trung ương, Blanchard chỉ ra, đã đầy đủ và toàn diện hơn của những người đồng nghiệp của ông ở châu Âu. Thực tế, Ngân hàng Trung ương châu Âu mới đây đã bắt đầu học tập cách tiếp cận của Fed để đối phó với cuộc khủng hoảng của chính mình. Đến giữa mùa đông, thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ sau khi kết thúc suy thoái. Gần như chắc chắn vào thời điểm Bernanke rời nhiệm sở, tình hình ở Mỹ sẽ tốt hơn ở Lục địa già.
Cuối cùng, di sản của Bernanke sẽ phụ thuộc vào việc ông có thể hoàn toàn thoát khỏi cuộc tranh luận về thế chấp mà không để lại một cuộc tranh cãi mới hay thổi bùng ngọn lửa lạm phát khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát hay không. Alan Greenspan về hưu giống như vị hoàng tử của ngân hàng trung ương, nhưng uy tín của ông đã giảm sút nhanh chóng do bong bóng xì hơi trong nhiệm kỳ của Bernanke. Khi còn đảm đương chức vụ, Paul Volcker đặc biệt gây nhiều tranh cãi bởi các chính sách diều hâu của ông; nhưng hiện tại, ông thực tế gần như đã được phong thánh. Vincent Reinhart, người từng làm việc dưới thời Greenspan và Bernanke với vai trò là trợ lý tiền tệ cấp cao và hiện đã về hưu, cho rằng tôi đang viết về Bernanke sớm 5 năm. Chắc chắn, không ai biết lạm phát hay thất nghiệp sẽ như thế nào trong 5 năm nữa. Thay vì dự đoán đoán, tôi muốn nhắc lại lời khen của Hank Paulson, cựu Bộ trưởng Tài chính, người mới đây đã nói với tôi: "Tôi không biết người ta kỳ vọng Ben sẽ làm những gì. Với tôi, điều ông làm được là điều khá ấn tượng. Ai đoán được khi nào ông đến Washington chúng ta lại may mắn đến vậy khi có một người sẵn lòng nghĩ khác đi và đối phó với cuộc khủng hoảng chưa từng có này?"
Những sự chỉ trích bên trong nội bộ khó có thể hiểu được, nhưng đó là một phần mặt trái của niềm tin phổ biến rằng chúng ta đã mong muốn có một Cụ dự trữ Liên bang hiện đại. Vào thời điểm Nicholas Biddle, và ngay cả trong những năm Fed mới thành lập, giấy bạc ngân hàng, nghĩa là các giấy tờ nợ, có thể được hoàn trả lại lấy thứ gì đó có giá trị, thường là vàng. Hiện tại, đồng đôla chỉ có thể đổi được lấy đồng đôla. Đó là những gì sẽ gây báo động những người theo quan điểm nguyên gốc.
Những người theo quan điểm nguyên gốc không hài lòng với nới lỏng định lượng cũng không vui vẻ với đồng tiền co giãn và với chính đồng bạc giấy; không thứ gì khác, ngoài vàng có thể làm họ hài lòng được. Dĩ nhiên, điều này đã đúng trong 40 năm qua, kể từ khi Mỹ rút khỏi chế độ bản vị vàng - nhưng chỉ Bernanke phải triển khai mạnh mẽ như vậy những nhiệm vụ nguyên gốc của Fed là "người cho vay cuối cùng" và "người tạo ra đồng tiền co giãn". Và ông đã ở đó, trên một chiếc máy bay, ném những đồng tiền xuống. Đây là điều đáng ra Fed đã nên làm vào năm 1933. Tuy nhiên, dù người Mỹ có đang cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng thực tế cũng gợi ra trong họ một sự băn khoăn, âu lo rằng chỉ riêng một tiến sĩ hay một nhóm các có thể tìm ra được bí mật về một cung tiền hợp lý hay không, đặc biệt trong nền kinh tế năng động như của Mỹ hiện nay. Bernanke không sử dụng vàng làm một thước đo; ông không lấy tiền trong lưu thông làm cơ sở quyết định lãi suất, như Volcker đã làm, hay thử làm. Người thầy của ông, Milton Friedman, suy nghĩ việc điều chỉnh lãi suất là việc hết sức nan giải, nhưng tốt hơn hết vẫn là tạo ra nhiều việc làm thay vì chiếc máy tính hơn. Nhưng Bernanke tin con người có thể tìm ra được bí mật đó. Ông bám chặt khái niệm về lạm phát và dự đoán sẽ nó hướng đến đâu, tin tưởng vào đánh giá của mình sẽ cho ông biết khi nào nên tăng hay giảm tính thanh khoản. Và xa hơn những gì ông được công nhận hôm nay, lịch sử có thể sẽ lưu mãi thành công của Bernanke.
.Roger Lowenstein
Đình Ngân dịch
Roger Lowenstein, sinh năm 1955, tốt nghiệp Đại học Cornell, là một nhà báo về tài chánh, cũng là tác giả của nhiều sách, viết cho nhiều tờ báo tên tuổi ở Mỹ, hàng chục năm tổng kết tin tức tài chánh cho Wall Sreet Journal. Ông cũng là giám đốc Sequoia Fund.
Web page Updated ngày 14/4/2012