NGHE CÁC ĐÀI PHÁT THANH
RFA/Vietnamese - RFI/Vietnamese - BBC/Vietnamese - VOA/Vietnamese - Little Saigon TV - VNI TV - Sagon TV - SBTN
Quốc Tế Cộng Sản và Cộng Sản Quốc Tế.
DANVAN MAGAZINE 2012/05/03
**************************************
Kính thưa Độc giả các Diễn Đàn,
Trong ngày 30.04.2012, Toà soạn TCDV nhận được 2 bài viết:
1- QUỐC TẾ CỘNG SẢN và CỘNG SẢN QUỐC TẾ.
(Một Biên Khảo Về Buổi Đầu Của Cộng Sản).
2- TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC TRONG MÙA HÈ 1972.
* Tác giả bài 1 là một quân nhân BĐQ/QLVNCH, anh tên Đỗ Như Quyên - đến Mỹ, Anh Quyên không trở lại trường mà tìm đọc các cuốn sách, tài liệu bằng Anh ngữ để viết về các trận đánh của QLVNCH, gần đây Anh đã tìm ra “đầu mối” của cái “quái thai thời đại” là Chủ Nghiã CS được “cáo Hồ” đem về áp đặt tại VN, nên Anh đã viết thành một bài biên khảo trên, và TCDV sẽ chia thành nhiều kỳ để đăng trên các DĐ, trong bài biên khảo này, tác giả đã “khám phá” ra sự liên hệ giữa “DÒNG TÊN” của Toà Thánh La Mã và chủ nghiã CS, mời qúy vị theo dõi.
Bất cứ độc giả nào có ý kiến về bài biên khảo này, chúng tôi sẵn sàng đăng tải và chuyển đến tác giả bài viết.
* Tác giả bài 2 là một Huynh Trưởng của chúng tôi, Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng (xin xem Tiểu sử bên dưới), qua Mỹ Ông đã trở lại trường và tốt nghiệp - Cao học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
TT Dưỡng là người đã „tử thủ“ An Lộc cùng với Chuẩn Tướng ANH HÙNG Lê Văn Hưng.
Bổn báo chủ nhiệm đã mất một người bạn đồng khoá 25SQTĐ tại trận chiến này, cố Đại Uý Lê Văn Hiếu, TĐ 52BĐQ, đã nằm lại nơi đây, năm ngoái, một người bạn cùng binh chủng, nguyên Đại Úy Đoàn Trọng Hiếu đã lo việc „cải táng“ cho hơn 60 anh em đồng đội đã hy sinh tại Bình Long An Lộc, trong đó có cố Đ/U LVH.
Bài viết của HT Dưỡng rất chi tiết và tỉ mỉ, ông đã mô tả các trân tấn công của VC như thế nào và quân dân ta đã giữ vững An Lộc ra sao, xin mời quý vị theo dõi.
Như thường lệ, vì hai bài viết rất dài nên Toà Soạn cũng chia ra nhiều kỳ để các DĐ đăng được đầy đủ. Quý vị nào cần ngay cả bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi đến hầu quý vị.
Xin lưu ý, vì TCDV là thành viên của hơn 150 Diễn Đàn Internet, mỗi ngày nhận được bài vở, tin tức khoảng hơn hai ngàn (2.000) Email, nên nhiều khi email của quý vị gởi cho TCDV không đến được vì lúc đó hộp thư đã quá đầy, do đó, nếu 2 ngày mà không thấy Toà soạn hồi âm, xin quý độc giả gởi lại email đó. Thông thường chúng tôi nhận được thư là hồi âm ngay, kèm theo các bài vở trong attachments.
Trân trọng.
Germany, ngày 01.05.2012
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
Quốc Tế Cộng Sản và Cộng Sản Quốc Tế.
(Một Biên Khảo Về Buổi Đầu Của Cộng Sản)
Đỗ Như Quyên
Lời Giới Thiệu.
Kính thưa bạn đọc.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, sau lúc cộng sản ở Nga thành công trong việc làm sụp đổ cả một đế chế rộng lớn vào năm 1917, sau đó họ thiết lập một "nhà nước" mang sắc thái mới lạ và rất "hấp dẫn" mà những người lãnh đạo phong trào "cách mạng" này gọi đó là chính quyền của nhân dân, chính quyền của tầng lớp nghèo khổ là công nhân và nông dân, hoặc ngắn gọn hơn thì gọi đấy là "chính quyền của giai cấp vô sản". Từ năm 1917 cho tới khi Chiến Tranh Thế Giới Lần 2 kết thúc trong năm 1945, hình mẫu của chính quyền "vô sản" ở Nga là niềm mơ ước của biết bao con tim đang khát khao tìm sự độc lập, tự do, bình đẳng v.v cho quê hương mình, lúc đó vẫn còn nằm dưới sự cai trị của chế độ vua, quan phong kiến hoặc bị xâm lăng và thống trị bởi chủ nghĩa thực dân đến từ Âu Châu, có người còn nuôi chí hướng xa hơn là mong được mang lá cờ của chính quyền "vô sản" đến khắp nơi trên thế giới. Trong vô số những người nuôi mộng ước đó, tầng lớp được cho là "trí thức, khoa bảng" đã bị thu hút mãnh liệt nên giới này không ngần ngại sự dấn thân. Họ đến với "lý tưởng cộng sản" một cách chân thành, coi lý thuyết "xã hội chủ nghĩa" như một cứu cánh cao cả nhất để mang lại hạnh phúc, thịnh vượng không những cho tổ quốc mà cho cả toàn nhân loại. Chính họ là những người đi đầu khơi dậy ngọn lửa chống áp bức, bất công, nghèo đói đang âm ỉ và dồn nén trong tầng lớp nông dân và thợ thuyền. Kết quả là từ năm 1917 đến khi các chế độ cộng sản lần lượt sụp đổ vào năm 1990, đã có rất nhiều xứ sở trải qua các cuộc bạo lọạn "cách mạng", chiến tranh "giải phóng" v.v để xoá bỏ thể chế cũ và thiết lập nên chính quyền "vô sản", và những lá cờ đỏ "buá - liềm" đã tung bay ngạo nghễ trên gần một nửa diện tích đất đai của quả địa cầu trong giai đoạn đó.
Chỉ đến khi các thành lũy cộng sản lần hồi tan rã (trừ Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn; Cuba), giới trí thức, khoa bảng từng nuôi ảo tưởng về "chủ nghĩa đại đồng" mới giật mình tỉnh ngộ khi vô số các tội ác tàn bạo của cộng sản bị phơi bày. Lúc đó họ mới biết nhiều thế hệ có ăn học, có bằng cấp như mình đã bị lừa bịp một cách nham hiểm bởi các đảng viên cộng sản lão luyện trong lãnh vực tuyên truyền. Lúc họ sáng mắt ra, dù sao, cũng đã muộn rồi. Sự sám hối của họ bây giờ chắc chắn không thể làm sống lại hàng trăm triệu nạn nhân đã bị cộng sản giết hại bằng đủ loại hình thức, trong đó cũng có rất nhiều trí thức từng can đảm lên tiếng tố cáo tội ác của cộng sản. Sự ăn năn thống hối của họ cũng không thể nào khoả lấp hoặc hàn gắn được những tan vỡ, những mất mát chia lìa của biết bao nhiêu gia đình đang sống trong ác mộng vì những người thân yêu ra đi trong tức tưởi. Và họ cũng chẳng thể một sớm, một chiều tẩy rửa được hết các "di căn" hậu họa do cộng sản để lại trong lối sống của thế hệ trẻ hôm nay như sự dối trá, lừa đảo, vô luân lý, phi đạo đức, ích kỷ, độc ác, xảo quyệt để tiến thân và nhất là bị mù loà về văn hoá, kiến thức v.v. Nhưng phải lấy công tâm để nhìn nhận, sự thức tỉnh và biết đền đáp lại những ngu muội của mình trong giới trí thức, khoa bảng một thời lầm lạc vì cộng sản, ít ra cũng xoa dịu một phần nào đó trong nỗi đau đớn chung của xã hội loài người trước thảm họa cộng sản. Tuy nhiên, không phải tất cả các trí thức, khoa bảng đều tỉnh ngộ hay biết phục thiện sau khi các sự thật ê chề của cộng sản bị đưa ra ánh sáng, trái lại có một số vẫn lì lợm tiếp tục làm công cụ cho cộng sản, chấp nhận đem tài năng và trí tuệ của mình phục vụ cho tội ác, đó là trường hợp cuả những "con ruồi" trí thức đang vo ve bên bốn "đống rác" xú uế của cộng sản còn sót lại hôm nay gồm Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn và Cuba. Đối với những người biết nhận xét, họ có thể hiểu và thông cảm phần nào cho lớp trí thức đang còn bị kẹt trong bộ máy man rợ của cộng sản tại bốn quốc gia nêu trên. Có thể họ vì an toàn cho tính mạng cá nhân, cho gia đình, vì cơm ăn áo mặc v.v nên đành ngậm miệng cúi đầu làm thân "trâu ngựa" cho chế độ. Nhưng bên cạnh đó, lại có những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v (không kể giới "nghệ sĩ") bằng cấp đầy mình đang sống ở những quốc gia không cộng sản đã cố tình bất chấp dư luận, mang "tài cao học rộng" của mình đến với chế độ cộng sản, nhất là những kẻ đó lại nói cùng một ngôn ngữ, có chung một huyết thống dân tộc tại nơi mình đến "kiếm ăn nhờ bằng cấp". Chẳng lẽ họ mù loà đến mức không thấy nỗi khổ đau của đồng bào mình?
Trong phạm vi của bài biên khảo hôm nay, chúng tôi chỉ đề cập đến trường hợp Việt Nam, vì đảng cộng sản đang thống trị trên quốc gia này được chúng tôi xác định là một tổ chức tội phạm hung hiểm nhất, quỷ quyệt xảo trá nhất, vô học và tàn bạo nhất trong lịch sử loài người với những gì tồi tệ nhất mà thế giới cộng sản trước khi chết đã gom lại và dồn hết vào cho nó. Ngoài ra, chúng tôi cũng được biết đã từ lâu lắm cho tới tận hôm nay, 2012, cộng sản Việt Nam sở dĩ còn kéo dài được sự thống trị sắt máu là do có sự chống lưng giúp đỡ từ một nhóm "siêu quyền lực" đang giấu mặt và có nguồn gốc tại Âu Châu.
Để tìm hiểu sự nghịch lý về hiện tượng trí thức Việt Nam ở hải ngoại đang tiếp tay cho tội ác ngay trên quê hương mình, chúng tôi, những người từng là quân nhân Biệt Động Quân / Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, có một thời chiến đấu không khoan nhượng với cộng sản trên chiến trường và hôm nay vẫn tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút trên mặt trận văn hoá. Vì xuất thân là những người lính, chúng tôi chẳng mong gì có được những học vị cao sang như phần lớn giới học giả, trí thức, khoa bảng v.v trong cộng đồng người Việt lưu vong hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng tìm đọc lại nhiều sách, báo, tài liệu v.v về nguồn gốc sự hình thành nên "triết thuyết" cộng sản, qua những gì được tham khảo chúng tôi mới biết rằng đồng bào mình nói chung, giới trí thức khoa bảng Việt Nam nói riêng đều hoàn toàn mù tịt về nguồn gốc ban đầu của cộng sản. Nếu có sự tìm hiểu về cộng sản từ giới trí thức, phần lớn các nghiên cứu của họ dù sâu rộng lắm cũng chỉ bắt đầu từ hai ông Karl H. Marx và Friedrich Angels trở về sau mà thôi.
Đây là một thiếu sót lớn, và cũng từ khởi điểm này mà giới trí thức người Việt đang tiếp tay với cộng sản hôm nay thực sự bị che mắt về những mưu kế độc ác của cộng sản đối với trí thức. Vì thiếu hiểu biết nên họ không biết rằng, bên cạnh những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v từ những ngày đầu hồn nhiên đem trái tim và kiến thức của mình đến với cộng sản (như đã viết ở phần trên), thì cũng có những kẻ vô lại, vô học, côn đồ, du thủ du thực v.v đi lạc đường vào vòng ảnh hưởng của cộng sản. Chính những thành phần này mới dễ bị tuyên truyền và nhồi sọ hơn thành phần có ăn học, và họ sẽ tuyệt đối trung thành với tổ chức khi đã có quyền lực ở trong tay. Và con số đảng viên thuộc thành phần hạ cấp đó luôn đông hơn số đảng viên được gọi là "trí thức". Khi một đảng cộng sản còn hoạt động trong bóng tối, khởi thủy những kẻ thành lập tổ chức tự coi là những cái đầu của đảng, sau đó giới trí thức ngây thơ sẽ được chọn đưa ra ngoài công khai để thu hút công chúng bằng những bài diễn văn rực lửa. Cùng lúc đó trong bóng tối, thành phần côn đồ sẽ tung ra các hoạt động gây xáo trộn xã hội bằng đủ loại khủng bố, gây áp lực tâm lý và buộc những người yếu bóng viá phải chấp nhận đứng vào hàng ngũ của chúng. Giai đoạn này được coi như nhằm tạo ra hai bàn chân để đưa "cách mạng" đi tới mục đích sau cùng.
Khi đã cướp được chính quyền thì thành phần đảng viên trí thức sẽ bị loại dần ra khỏi những vị trí, chức vụ quan trọng trong cơ cấu tổ chức đảng, tệ hại hơn có thể bị thanh trừng, tù đày, thủ tiêu v.v với cả ngàn lý do mà bọn vô lại ở chóp bu đưa ra. Sau đó là việc thành lập công an, mật vụ, tuyên- giáo v.v để theo dõi và trấn áp những bất mãn, chống đối từ trong nội bộ ra ngoài xã hội, gọi là an ninh (chính trị). Tiếp theo là hình thành nên lực lượng vũ trang (quân sự) để tăng thêm sức mạnh cho đảng và cũng để răn đe đối phương bên ngoài biên giới. Hai cấu trúc sau cùng được xem như hai cánh tay thép để bảo vệ sự tồn tại của đảng. Và luôn luôn nhớ rằng, chỉ có thành phần hạ cấp, vô học, tàn nhẫn, trung thành nhất mới lọt đươc vô nơi cao nhất trong đảng là "bộ chính trị". Còn lớp đảng viên tầm thường mới vào đảng, "quần chúng", trí thức v.v luôn bị "cái đầu" ở trên coi như hai bàn chân bên dưới, bọn vô lại ở chóp bu lợi dụng vào đó để đưa "đảng" đi tiếp trên con đường độc quyền thống trị mà thôi! Xin thử hỏi những vị trí thức, khoa bảng người Việt ở hải ngoại lâu nay đang giao du với Việt Cộng: "Đối với lớp trí thức gốc đảng viên từng theo họ từ ngày lập đảng, hoặc được đào tạo ngay tại những ngôi trường do chúng lập ra, những kẻ đó còn bị chúng coi rẻ như vậy thì quý vị, những người có bằng cấp ở ngoại quốc và cũng chưa từng nếm mùi "nội bộ" đảng thì họ khinh rẻ quý vị đến mức nào"? "Bị coi khinh và nghi ngờ như vậy, làm sao thiện chí (nếu có) của quý vị thực sự giúp đươc nỗi thống khổ của đồng bào"? "Quý vị nào biết cộng sản tàn độc đến mức chúng ngó lơ hết tất cả các khổ đau của xã hội, từ thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo v.v. Vì sao chúng không quan tâm? Bởi cộng sản biết rõ sẽ có quý vị lo giùm điều đó cho họ, vì tình cảm con người xuất thân những nơi dư ăn, dư mặc khó thể quay lưng trước thảm cảnh đó của đồng bào. Còn đảng cộng sản thì sao? Xin đừng hỏi điều nhân nghĩa và đạo đức với một bọn vô lại, hạ cấp, vốn xuất thân từ cặn bã của xã hội và đang ở tột đỉnh của quyền lực"! Đây là một đòn cân não mà Việt Cộng đã đánh trúng vào điểm yếu nhất của người Việt Nam lưu vong hiện nay trong vấn đề tình nghĩa, máu chảy ruột mềm. Bởi vậy bọn lưu manh mới nhởn nhơ tại vị, ngồi trên đầu cả một dân tộc và được kẻ yếu lòng cho không mỗi năm cả chục tỷ đô la.
Những người nghiên cứu về Karl H. Marx; Friedrich Angels thường dành nhiều nhất thời gian để tìm hiểu về bộ sách đồ sộ là "Tư Bản Luận". Những ai càng chú tâm vào đó thì càng lún sâu vào âm mưu lừa bịp của một bọn lưu manh đã mướn Karl H. Marx viết ra bộ sách đó. Nội dung của nó đưọc sắp đặt rất công phu, cùng với những phân tích, con số, nhận xét rất hợp lý về nền kinh tế (nói chung) của "tư bản" vào thời kỳ mà giai đoạn "cách mạng kỹ nghệ" mới bộc phát. Trong thực tế câu trả lời đích thực về mục đích cuả bộ sách ấy là gì? Xin lập lại là không có gì cả, chỉ là sự dàn dựng bằng một rừng chữ nghĩa rất uyên thâm, mục đích của nó là hớp hồn giới trí thức, làm cho họ phải say mê nghiên cứu và hy vọng đem áp dụng vào cuộc sống nhưng rồi....tất cả chỉ là ảo tưởng, là màn lừa bịp tinh vi nhất bằng sách vở.
Vậy ai là kẻ bỏ tiền ra mướn K. Marx ngồi viết nên "tác phẩm" lừa đảo đó? Xin thưa. Đó là một hội kín có tên Hội Cộng Sản (the Communist League), và cái hội cộng sản đó lại mới đổi tên từ một hội bí mật có tên là Hội Của Những Người Công Chính (the League of Just Men), chưa hết, cái hội "công chính" đó chỉ là một trong nhiều cái nhánh của ... một cành cây lớn hơn có tên là Hội Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League). Vậy làm sao biết được "cái cây" đó? Xin thưa. Chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi xa hơn, tìm về một con người, là đầu mối gây ra thảm họa cộng sản cho nhân loại. Nhân vật này đã viết ra các nền tảng ban đầu về cộng sản. Tất cả chỉ vì lòng hận thù đối với giáo hội Công Giáo, mà mục tiêu là Đức Giáo Hoàng. Con người này không ít thì nhiều cũng đã một thời làm điêu đứng cả toà thánh Vatican , và những bậc thầy của ông ta trước đó cũng gây tai tiếng khá nhiều cho giáo hội Công Giáo. Để tìm hiểu tường tận hơn, chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi ngược thời gian đến năm 1540, là năm mà Đức Giáo Hoàng Paul Đệ III cho phép sự thành lập một dòng tu, nhưng ngài không ngờ, chính dòng tu này là đầu mối tạo ra mầm mống cộng sản gần 200 năm sau đó. Phải chăng đây là một thử thách đớn đau mà Thượng Đế dành cho giáo hội Công Giáo La Mã trước các quyền lực của ma quỷ đang có mặt khắp trần gian?
Chúng tôi khi đưa ra bài biên khảo này, trước hết chỉ mong muốn giúp bạn đọc nói chung, giới trí thức thiếu trách nhiệm trước sự tồn vong của tổ quốc nói riêng, có thêm chút hiểu biết rõ ràng hơn về các mưu kế hèn hạ và nham hiểm của cộng sản, nhất là loại cộng sản cặn bã, rác rến như bọn vô lại đang chiếm đoạt quê hương chúng ta. Tuy nhiên, vì vấn đề tế nhị của bài biên khảo, nội dung có nói đến sự sa ngã của các tu sĩ trong một giai đoạn lịch sử, chúng tôi đã liên lạc và trình bày riêng với các vị đàn anh Biệt Động Quân để xin ý kiến, nhất là những vị Ki Tô hữu trong binh chủng. Quyết định sau cùng của các đàn anh là chấp nhận cho đăng bài biên khảo này trên diễn đàn Biệt Động Quân. Dù sao, chúng ta cũng không thể che giấu được sự thật của lịch sử, hơn nữa đây là vấn đề có liên đới đến công cuộc đấu tranh chung của chúng ta trước một quê hương đang còn bị ngả nghiêng vì cộng sản.
Chúng tôi mong rằng trong bạn đọc sẽ không có người lợi dụng các chi tiết, sự kiện v.v hay cắt xén nội dung của biên khảo này cho mục đích chia rẽ tôn giáo. Là một người Việt Nam, chúng ta đều biết hành động gây rẽ chia giữa các tôn giáo là một tội ác mà truyền thống đạo nghĩa của dân tộc không bao giờ chấp nhận. Quý vị có quyền trích dẫn cho mục đích học thuật, nghiên cứu hoặc sáng tác và xin ghi rõ nguồn trích dẫn.
Xin cảm tạ những ý kiến thiết thực, những tài liệu bổ xung đến từ nhiều đàn anh Biệt Động Quân để biên khảo này được hoàn tất.
Thay mặt nhóm biên soạn.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
---------------
(KỲ 3)
Chúng ta trở lại ngày 1.5.1776.
"CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM LÀ AI?: LÀ MỘT HỘI KÍN ĐÃ CHIẾM TRỌN MỘT QUỐC GIA"!
Kính thưa bạn đọc.
Xem lại 6 điểm chính trong bản cương lĩnh cuả hội kín Sáng Tuệ, chúng tôi cũng như bạn đọc, thấy ngay rằng đảng cộng sản ở Việt Nam gần như thực hiện đủ 6 điều này từ năm 1930 tới nay, 2012, và đang tiếp tục duy trì các hành động đó của một hội kín có từ thế kỷ thứ 18. Suy ra, lịch sử cũng thật công bằng vì song song với sự có mặt, tồn tại dai dẳng của cộng sản trên đất nước chúng ta thì cũng có tinh thần đối kháng cộng sản xuất hiện trong xã hội, tạo được một sức mạnh vô hình và chiến đấu bền bỉ từ năm 1930 đến hôm nay. Cộng Việt tuy lấn lướt gần một thế kỷ qua nhưng không còn hy vọng sẽ thắng được đối lực này. Phiá những người chống cộng nói chung, dù đã đối đầu với cộng sản Việt Nam cũng khá lâu trên nhiều lãnh vực như văn hoá, chính trị tới quân sự, tôn giáo, nhân quyền v.v nhưng chưa bao giờ có được một lợi thế áp đảo hẳn thế lực ma quái đó. Tại sao? Có thể vì quan niệm rằng .."người có chính nghĩa" thì phải hành động chính trực ngoài ánh sáng, công khai lập đoàn thể, hội họp, nói ra lý tưởng, kế hoạch, tổ chức nội bộ, địa chỉ v.v vì phải để công chúng biết nhằm thu hút sự ủng hộ". Trái lại, cộng sản ở Việt Nam là một hội kín trá hình, nấp trong bóng tối dưới cái tên như một đảng chính trị nên họ thấy hết, biết hết các hội, đoàn hoạt động ngoài công khai. Bởi là hội kín, thu nhận "hội viên" dĩ nhiên phải kín đáo trước công luận nên các cuộc họp "hội viên", lý lịch cán bộ, sự đi lại hoạt động, công tác của đảng viên, an ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh quốc gia v.v hội kín này phải giữ bí mật. Người cuà đảng có thể len lỏi đi các nơi, có tai mắt khắp chốn, cấu kết với thế lực hội kín đa quốc gia, biết trước những đầu mối đe dọa nên họ luôn có kế hoạch đối phó v.v. Tổ chức một bộ máy hiểm hóc như vậy và vận hành trong bóng tối mới khống chế được toàn xã hội, mà trường hợp Việt Nam là một điển hình. Người ngoài tổ chức đừng mong chi lọt vào guồng máy nội bộ cuả hội kín để dòm ngó, phá hoại sự sống còn của một băng đảng lưu manh lạc đường vào lịch sử. Tóm lại, chính sự khác biệt nhau trong phương cách tổ chức và hoạt động, giữa công khai và bí mật nên cộng sản ở Việt Nam luôn chiếm lợi thế trước những đổi thay cuả thời cuộc. Hơn thế nữa, những người Việt Nam từng chiến đấu hoặc sẽ tiếp tục đối đầu với cộng sản, từ người có nhiều kinh nghiệm chính trị tới kẻ có học thức cao v.v vẫn còn hiểu biết rất mơ hồ về hội kín ở Âu Châu. Vẫn tin rằng phương Tây, nơi các thể chế "dân chủ" với "tam quyền phân lập" được ra đời, là mẫu mực lý tưởng nhất về cấu trúc của những chính phủ pháp trị, công bằng và minh bạch... nhưng người Việt chống cộng lại không biết hầu hết các chính phủ ở Âu Châu, ở nước Mỹ đều được lập ra bởi những cá nhân hoạt động bí mật trong thế giới ...hội kín như Tam Điểm; Thợ Đá Tự Do; Sáng Tuệ v.v.
"Tam quyền phân lập", như nước Mỹ chẳng hạn, gồm Lập Pháp; Hành Pháp; Tư Pháp, cả ba đều vận hành độc lập, kiểm soát lẫn nhau nên không thể có lãnh tụ độc tài, phe nhóm độc quyền. Nhìn bên ngoài thì thấy rõ ràng như vậy nhưng bên trong thì không phải như vậy! Hãy nhìn cho kỹ vào hình cái tháp (quốc huy thứ hai) sẽ thấy trong đó có tới hai hình tam giác chớ chẳng phải một. Cái lớn ở dưới không có đỉnh nhọn, nó bị cắt ngang thành hình "tam giác" có bốn góc! Tách biệt ra hẳn ở trên cao lại có thêm một hình tam giác nhỏ hơn. Chính hình tam giác nhỏ trên đỉnh mới là nơi nắm hết quyền lực chính trị, quốc phòng, tài chánh, kinh tế Liên Bang Mỹ. Đặc biệt hơn dù nó tách ra khỏi cấu trúc (chính phủ) bên dưới nhưng vẫn thấy và kiểm soát tất. Đó là thông điệp mà hội Tam Điểm và Sáng Tuệ gởi gắm vào đó từ ngày đầu họ lập ra nước Mỹ, khó mà tin "tam quyền phân lập" ấy.
Cộng sản ở Việt Nam cũng có cấu trúc tổ chức hình tam giác như thế, vì lẽ hội kín Sáng Tuệ là cha đẻ của các đảng cộng sản. Họ cũng có ba góc cạnh căn bản bao bọc tất cả là Chính Trị; An Ninh; Quân Sự. An ninh (công an) và quân sự là hai yếu tố bảo vệ nền tảng cho đảng, từ dưới thấp nhất (xã hội) lên nơi cao nhất và bao bọc toàn khối (nội bộ). Chính trị ở chóp đỉnh là nơi kiểm soát hết tất cả, nhưng nó cũng tách biệt khỏi toàn khối và cấp dưới đừng mong biết gì về nó, đó là "bộ chính trị", nơi quy tụ những đảng viên trung thành nhất, hiểu biết rõ nhất về sự vận hành của đảng, những kẻ nhẫn tâm tàn ác nhất, về nhân cách, học vấn, kiến thức v.v là con số không! Đó là một bọn vô lại có được quyền lực nhờ các biến loạn lịch sử và biết giết người không run tay. Hôm nay những kẻ sát nhân đó cũng diện "com lê", cũng thắt "cà vạt" như ai...nhưng bản chất lưu manh, quỷ quyệt trong đầu họ vẫn còn nguyên như thời đi làm loạn. Nếu có ai mong rằng cộng sản ở Việt Nam sẽ thay đổi chính sách, cải cách chính trị, mở rộng tự do, dân chủ, nhân quyền v.v cũng như mơ tổng thống Mỹ là người Tàu, thủ tướng Tàu là người Nhật, giáo hoàng người Phi Châu. Những ai nuôi dự tính sẽ soạn kiến nghị, thư ngỏ này nọ để gởi cho cái đảng đó thì xin quý vị nên dành thời giờ "cầm đàn khảy tai trâu" vẫn tốt hơn. Những ai đã hoặc sẽ đem kiến thức khoa học, kinh nghiệm nghề nghiệp cuả mình về nước hợp tác với cộng sản với hy vọng họ sẽ học hỏi, cải thiện xã hội, dân chúng được nhờ v.v xin các vị đó nên thôi làm chuyện "gởi vàng vào tay cướp"! Tất cả các niềm tin, nỗ lực nói trên đều vô ích vì không thực tế (ở đây chúng tôi không nói tới thành phần về nước hưởng thụ hay kiếm tiền nhờ bằng cấp).
Đối với thứ cộng sản rác rưởi, cặn bã như cộng sản ở Việt Nam, đừng mong chúng từ bỏ quyền lực, và cũng đừng mong rằng các "áp lực" quốc tế làm họ kiêng dè, tuân thủ các "luật lệ" về quyền dân sự. Hơn ai hết, nhóm chóp bu cộng sản biết rất rõ nền tảng, cấu trúc các chính quyền ở Âu Châu, Mỹ chỉ là một thứ xã hội chủ nghĩa "dễ thở" hơn, "dễ nhìn" hơn với lớp áo tư bản. Hơn thế nữa, tất cả đều cùng một lò mà ra như cộng Việt, cùng có chung một "sư tổ" là ông Adam Weishaupt nên dĩ nhiên phải chống lưng lẫn nhau, cùng chơi trò tung hứng bàn cờ chính trị trên sự thống khổ của nhân loại nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Cộng sản trên đất nước chúng ta họ không sợ một "chính phủ' nào trên thế gian này! Họ chỉ lo hai điều là: "tinh thần quật khởi trong tâm thức cuả người dân Việt Nam rất mãnh liệt, tuy bị đè nén nhưng vẫn còn đó". Sách sử còn nhắc nhở: mỗi lúc dân tộc Việt Nam cùng đứng lên thì to mạnh như ngoại bang cũng phải chạy lùi. Nhưng họ thì không còn nơi nào để chạy. Điều lo thứ hai: "tinh thần đó sẽ được đánh thức, mà người Việt ở hải ngoại là nguồn tác động chính". Họ thì không thể ra ngoài kiểm soát hết được (trừ phi chủ nhà đồng lõa).
Một Cái Nhìn Khái Quát Về Hội Kín ở Âu Châu Thời Trung Cổ.
Từ đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch đến cuối thế kỷ thứ 15, Âu Châu trải qua Thời Trung Cổ (Medieval Time, 5 AD - 16 AD) dưới sức mạnh của thần quyền là giáo hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic). Thời này còn bị gọi là Thời Tăm Tối (Dark Age). Trong giai đoạn đó rất nhiều hội kín thành lập. Ban đầu là tín đồ cuả những đạo cổ xưa hơn như thờ mặt trăng, mặt trời, vũ trụ, lửa, đá v.v nhưng nay bị cấm. Họ tuy bị quan binh La Mã buộc phải cải đạo nhưng một số vẫn lén lút tụ hội, thực hiện các buổi lễ của tôn giáo mình trong bí mật. Kế đó là các sắc dân chống lại sự chiếm đóng của La Mã cũng lập hội kín. Rồi những người có kiến thức khoa học, lịch sử, thiên văn, triết lý v.v tùy theo lãnh vực mà lập hội kín để học hỏi, bàn luận những sai lầm của tòa thánh Vatican . Và lúc bấy giờ, ai bị bắt vì tham gia hội kín sẽ tử hình. Nhưng không vì thế mà dập tắt được "phong trào" hội kín, họ sống chui núp khắp nơi trong lãnh thổ đế quốc La Mã. Ngoài ra trước khi có hai đế quốc La Mã và Hy Lạp, đã có một hội kín ra đời ở Ai Cập hơn 2.000 năm trước Tây lịch, đó là hội Thợ Đá (the Mason, hội kín Tam Điểm xuất xứ từ hội này). Hội kín Thợ Đá là tổ chức đáng sợ, đáng nể nhất đối với hai đế quốc nêu trên vì hội viên toàn là những bộ óc uyên bác nhất, thông thái nhất cuả Ai Cập. Vì vậy có không ít giới quý tộc, trí thức, quân nhân La Mã cũng lén xin tham gia để mong được học hỏi các bí ẩn nằm trong ... hình tam giác ("kim tự tháp").
Đến đầu thế kỷ thứ 16 tới thứ 17 thì xã hội Âu Châu bắt đầu giai đoạn Phục Hưng (Renaissance Era, cuối Tk 15 đến 17 AD) mở đầu cho Thời Hiện Đại (Modern Time). Vào lúc này giới trí thức, quý tộc, tu sĩ v.v như bừng tỉnh khi tìm học lại những giá trị văn hoá của hai nền văn minh La - Hy, từ kiến trúc, toán học, quân sự cho tới triết lý, thiên văn, sử thi, hội họa v.v. Giáo hội tuy nghiêm khắc và cứng rắn hơn, nhưng không thể cấm cản được hoàn toàn việc lén lút tự tìm hiểu, nghiên cứu cuả giáo dân trong xã hội. Quyền lực của tòa thánh Vatican bắt đầu suy giảm. Hội kín mọc ra như nấm, các quán ăn ở hầm đá, hầm rượu, kể cả gầm cầu, nhà kho v.v đêm đêm chật kín đủ hạng người cuả xã hội Âu Châu. Họ tụ tập bàn luận đủ thứ chuyện trên đời, kể cả đọc thơ, xướng hát. Có những người thay nhau đứng trên bục cao để tranh luận, hay nói lên ý tưởng mới mẻ cuả mình về xã hội, nhân văn, khoa học v.v hoặc táo bạo hơn là đọc những bài diễn văn bốc lửa để kết tội giới thượng lưu, quý tộc và "giáo triều" Vatican. Chính ở các nơi đó mà Châu Âu rồi sẽ có thêm những triết gia, khoa học gia và cả các nhà ... cách mạng!
Từ những năm trong 1650 tới giữa thế kỷ thứ 18 là Thời Khai Sáng (Age of Enlightenment, 17- 18 AD) rồi tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution, 1750- 1850). Những hội kín của nông nô, tá điền cũng được lập ra nhằm chống lại giới địa chủ quý tộc hoặc chủ đất tỉnh lẻ. Công nhân cuả thời kỹ nghệ mới khai sinh cũng thành lập hội kín để đối đầu với tầng lớp thượng lưu giàu có làm chủ nhà máy.
Hội kín Sáng Tuệ ra đời vào lúc này, ngoài thiểu số trí thức khá giả nằm trên chóp đỉnh của hội, ba lực lượng chính mà họ nhắm vào để tuyên truyền, thu nạp là công nhân, nông dân và giới du côn, trộm cướp. Giai đoạn này trong xã hội Âu Châu đã có rất nhiều hội kín, có đủ loại lý tưởng mà họ theo đuổi, đủ thứ phe phái và..hệ phái thoát ra từ hội gốc. Vì vậy trong thế giới ngầm cũng đã xảy ra một cuộc chiến tranh khốc liệt mà sử sách không nói tới là "Chiến Tranh Giữa Các Hội Kín" (Secret Societies War). Những hội kín có nguồn gốc xa xưa về vấn đề tín ngưỡng lần hồi bị đào thải. Các hội lập ra để chống lại giáo hội Công Giáo La Mã thì bị phân hoá thành nhiều hệ phái, hoặc bị lấn lướt và sáp nhập vào những hội kín ....mạnh tiền và bạo tay hơn. Mỗi sáng bước ra đường, người dân Âu Châu thường phải bước qua những xác người bị giết chết bí ẩn bằng dao, bằng giây siết cổ, bao vải đen bao kín đầu v.v, chưa nói tới các cái chết vì bị đốt nhà, thuốc độc và thuốc nổ. Đó là những hình ảnh dễ nhìn thấy nhất trong cuộc chiến tranh-giành quyền lực của các hội kín. Quyền lực của tòa thánh Vatican bị loại hẳn ra khỏi các vương triều. Sân khấu chính trị ở Âu Châu nay các vai trò chính là những ông hoàng, bà chúa, quý tộc, trí thức và...hội kín. Tuy nhiên, dù có sự tranh giành ảnh hưởng giữa các hội kín lan ra ngấm ngầm như một cơn dịch, có nhiều tổ chức bị truy diệt, bị xoá tên nhưng riêng một hội kín không ai có thể đụng tới được là hội Thợ Đá (the Mason), "hoàng đế" cuả tất cả các hội kín. Hội này cũng có nhiều hệ phái, kể cả Tam Điểm và một hệ phái ra đời tại Anh là hội kín Thợ Đá Tự Do (the Freemason), một thế lực lập ra Liên Bang Mỹ.
Tóm lại, Âu Châu từ thế kỷ thứ 5 tới cuối thế kỷ thứ 15 đã có nhiều hội kín ra đời vì áp lực đè nén xã hội cuả giáo hội Công Giáo. Kiến thức hiểu biết về cổ sử, nhân văn, khoa học v.v phần lớn đều nằm trong tay giới tu sĩ trung thành với giáo hội. Do đó giới trí thức, người có hiểu biết buộc phải thành lập hay gia nhập hội kín để thỏa mãn sự học hỏi, nghiên cứu riêng cho mình, họ không còn sợ bị cấm đoán và trừng phạt bởi các giáo luật cuả hội thánh. Từ đầu thế kỷ thứ 16 kéo dài tới cuộc cách mạng kỹ nghệ (1750-1850), bên cạnh những xáo trộn cuả xã hội như dịch bệnh, chiến tranh, triều đại nào đó bị lật đổ v.v thì giới trí thức cũng tỏa sáng với những phát kiến mới mẻ nhất trong nhiều lãnh vực...mà người châm ngòi cho cuộc thoát ly trí tuệ ra khỏi ảnh hưởng giáo hội là nhà thám hiểm hàng hải Christopher Columbus (31.10.1451- 20.5.1506, gốc Ý Đại Lợi nhưng thần phục Tây Ban Nha). Sau đó là những nhân vật xuất chúng mà các tư tưởng, công trình cuả họ làm đổi thay sâu rộng xã hội loài người đến tận hôm nay. Tiêu biểu như Francis Bacon (22.1.1561 - 9.4.1626, triết gia người Anh); Galileo Galilei (15.2.1564- 8.1.1642, nhà thiên văn học, toán học, triết gia Ý Đại Lợi); Rene Descartes (31.3.1596- 11.2.1650, triết gia Pháp); Thomas Willis (27.1.1621- 11.11.1675, nhà khoa học Anh); Robert Boyle (25.1.1627- 31.12.1691, nhà khoa học, triết gia Anh); John Owen (1616 - 24.8.1683, giáo sư thần học Anh); Richard Lower (1631- 17.1.1691, nhà thiên nhiên học, bác sĩ Anh); John Locke (29.8.1632- 28.10.1704, triết gia Anh); Robert Hooke (28.7.1635- 3.3.1703, triết gia Anh); Isaac Newton (25.12.1643- 20.3.1727, nhà thiên văn, vật lý, toán học, thần học Anh); Francois Marie Arouet (Voltaire là bút danh, 21.11.1694- 30.5.1778, triết gia Pháp); Charles- Louis de Secondat, baron de La Brede et de Montesquieu (18.1.1689- 10.2.1755, nhà tư tưởng, triết gia Pháp); Jean Jacques Rousseau (28.6.1712- 2.7.1778, triết gia Thụy Sĩ); Georg Wihelm Friedrich Hegel (27.8.1770- 14.11.1831, triết gia Đức); Immanuel Kant (22.4.1724- 12.2.1804, triết gia Đức); Adam Smith (5.6.1723- 17.7.1790, triết gia Tô Cách Lan); Charles Robert Darwin (12.2.1809- 19.4.1882, nhà thiên nhiên học Anh); Friedrich Wihelm Nietzsche (15.10.1844- 25.8.1900, triết gia Đức) v.v.
Những người nêu trên, dĩ nhiên họ cũng phải vào hội kín như bao trí thức cùng thời tại Âu Châu, nhưng phần lớn đã gia nhập vào hội Thợ Đá (the Mason. Hội Thợ Đá có nguồc gốc ở Ai Cập, len lỏi vào Âu Châu hoạt động đã lâu đời và lạc mất đầu mối chốn xa xăm. Họ cũng không rõ lắm người xưa vì sao lập ra tổ chức này. Mãi tới năm 1717, khắp Âu Châu chỉ còn 4 phân bộ được coi là "già" nhất trong làng hội kín, họ đã tổ chức một cuộc họp tại Luân Đôn, nước Anh và bầu ra một Tổng Bộ, đổi tên thành Thợ Đá Tự Do (the Freemason). Sau đó tại mỗi nước cũng lập ra một tổng bộ, nhưng hệ thống quyền lực cuả hội này đều nằm ở nước Anh. Hội viên cuả nó là giới hoàng gia, quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ v.v chiếm đa số. Tính tới nay, 2012, khắp thế giới có hơn 7 triệu hội viên Thợ Đá Tự Do, nước Mỹ chiếm gần 4 triệu. Toàn cầu họ có hơn 40.000 phân bộ và 200 tổng bộ. Tuy có hơn 7 triệu hội viên nhưng chỉ có khoảng 600 người mới biết các bí mật về hội kín đó).
Hội kín Sáng Tuệ do ông Adam Weishaupt lập ra ngày 1.5.1776 ở vùng Baravia thuộc Phổ (Đức), là vào giai đoạn máy móc kỹ nghệ mới được khai sinh tại Âu Châu. Như đã trình bày sơ qua ở phần đầu, cũng vì mang lòng oán hận về chuyện Dòng Tên bị bức tử vào ngày 21.7.1773 bởi Đức Giáo Hoàng Clement XIV, ông ta lập hội kín này với mục đích trả thù xã hội. Với tham vọng lật đổ, đảo lộn tất cả những nền móng truyền thống cũ, từ thần quyền đến thế quyền, và thiết lập một trật tự mới mà mơ ước lớn nhất của ông là con người phải tuyệt đối được tự do. Vì thế ông đưa ra bản cương lĩnh với 6 điểm chính được coi là mới mẻ, hấp dẫn và táo bạo nhất trong thế giới hội kín vào lúc đó. Chúng ta thử xem lại 6 điểm này của hội Sáng Tuệ :
(1): Lật đổ hết tất cả các triều đại quân chủ trên toàn cầu. Trấn áp hết các hình thức chính phủ nào khác nếu có trong tương lai (Vô chính phủ).
(2): Tước bỏ quyền làm chủ đất đai và những gì có trên mặt đất của người dân (Vô tài sản, chống tư hữu).
(3): Bỏ luôn quyền thừa kế gia tài (Vô đạo đức).
(4): Cấm tiệt lòng yêu thương quê hương đất nước của riêng mình, xoá bỏ những khái niệm về quốc gia, dân tộc (Vô tổ quốc).
(5): Thiết lập một nền giáo dục chung cho trẻ em (Vô văn hoá, tuyên truyền). Dẹp luôn sự tôn kính trong gia đình, cấm hẳn vấn đề lễ lạc, cưới hỏi (Vô gia đình).
(6): Xoá bỏ hết tất cả các thứ tìn ngưỡng, tôn giáo đang có trên thế giới (Vô tôn giáo).
Đọc xong 6 điều này, chúng ta thấy đảng cộng sản ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn làm rất giỏi bài học đó của "đại sư tổ", người tạo ra cái quái thai cộng sản cách đây 236 năm !
"Dân ngu, nước khổ. Thời như vậy?
Người sáng, đất vui. Thế mới hay"!
Con người Âu Châu "sơ khai", sau giấc ngủ dài cả ngàn năm dưới bóng đêm của thế quyền và thần quyền, khi thức tỉnh (Phục Hưng) và nhận chân ra sự thật (Khai Sáng) họ chẳng còn chi để mất thì chuyện tổ quốc, gia đình, đạo đức, văn hoá, chính phủ, tài sản có mất cũng không sao! Mọi thứ sẽ là của chung cho những ai cùng sống trên quả đất này. Lý tưởng quá! Vậy là người ta xin vô hội Sáng Tuệ khá đông từ những ngày đầu. Lễ tuyên thệ nhập hội tổ chức trong bí mật với các nghi thức rất trịnh trọng. Những người gia nhập buổi đầu là giới chủ nhân kỹ nghệ, chủ ngân hàng, luật sư, trí thức v.v Họ mau chóng trở thành nhóm chóp đỉnh trong hội (cái đầu). Nhưng đọc kỹ lại 6 điều trên thì thấy toàn là chuyện khó làm đối với người giàu sang và có học. Muốn thực hiện được "lý tưởng" đó, chỉ có cách duy nhất là không ra mặt công khai, bỏ tiền ra thuê mướn hoặc kết nạp người nhẹ dạ, kẻ nghèo khổ, giới côn đồ vô lại, bọn trộm cắp lưu manh v.v và đưa họ vào các kế hoạch đi tạo biến loạn như đốt trường, phá chợ, ném thuốc nổ, ám sát viên chức, khiêu khích nhà cầm quyền, biểu tình, đình công, xúi nông dân phá huỷ nông sản, nổi loạn v.v. Một khi phiá công quyền ra tay đàn áp, sẽ là cái cớ để hội kín Sáng Tuệ kêu gọi một cuộc tổng nổi dậy hoặc một cuộc cách mạng. Các thành phần vừa kể sẽ là nền tảng (hai chân), là động lực vận hành chính cho tổ chức mỗi khi đi làm loạn. Tầng hạ cấp đó hội Sáng Tuệ cần rất đông nhưng cũng sẽ đào thải rất nhiều vì họ chỉ là lớp lót đường. Chỉ có một con số rất nhỏ trong tầng đáy đó mới được đưa lên cấp cao hơn, nếu kẻ đó có những tính cách đặc biệt khác người, nhất là phải trung thành và kín miệng. Hầu hết các cơ cấu quan trọng nhất trong hội đều lọt vào tay nhóm quyền lực ở chóp đỉnh. Các vị trí quan trọng thấp hơn cũng được giao cho tay chân tin cậy, người thân cuả nhóm ở trên cao.
Lúc bấy giờ ở những nước như Nga; Phổ; Pháp; Anh; Tây Ban Nha; Ý Đại Lợi v.v có khá nhiều nhà máy, khu kỹ nghệ .. phun khói mịt mù. Các khu phố, xóm nhà lụp xụp tồi tàn cũng mọc lên gần đó, nơi những người thợ thở trong bụi khói cùng với bệnh tật, trộm cướp, gái mãi dâm lui tới thường xuyên. Giới nông dân bỏ ruộng đồng dồn về thành phố kiếm việc làm, không có việc thì lang thang phiêu bạt, gặp gì làm nấy hoặc túng quá cũng làm liều, kể cả được mang danh là đi làm ...cách mạng. Những cuộc đời bất hạnh đó, là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào nhất cho các hội kín. Là nơi những tâm hồn mộc mạc, ít học, thiếu thốn rất dễ bị thu hút bởi các lý luận về nhân sinh, cuộc sống và lý tưởng ...cách mạng!
Con đường cách mạng lối đó cũng chính là con đường mà Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã đi làm ...cách mạng. Thế rồi ông chết đi, nhưng để lại trên quê hương Việt Nam một băng đảng hội kín với vô số những tội ác ngập đầu. Những kẻ sống bằng bạo lực, cướp chủ quyền đất nước cuả dân tộc Việt Nam nhưng mạo xưng là đi làm cách mạng, là giải phóng quê hương!?
Kính mời bạn đọc trở lại phần nói về hội Sáng Tuệ.
Giữa tháng 7.1785: Một hội viên Sáng Tuệ bị sét đánh chết lúc trên đường đi tới vùng Silesia, tỉnh Bavaria thuộc Phổ (Bắc- Tiệp Khắc, Tây Nam- Ba Lan ngày nay). Nhà chức trách địa phương cho khám xác nạn nhân, họ tìm được một bức thư quan trọng giấu trong người. Đây là một bức thư tối mật mà hội Sáng Tuệ gởi đến các phân bộ chuẩn bị cho ngày "tổng nổi loạn", do tổng bộ tổ chức nhiều nơi ở Bavaria. Chính quyền liền báo động trong toàn tỉnh. Họ tung ra nhiều cuộc lùng bắt hội viên Sáng Tuệ suốt 14 tháng. Ngay cả thủ lãnh, ông Adam Weishaupt cũng không chạy thoát.
Năm 1786: Hàng trăm hội viên cao cấp của Sáng Tuệ bị đưa ra toà Bavaria xét xử. Hầu hết đều bị kết tội âm mưu gây bạo loạn, phản nghịch với bản án là tử hình, trong đó có cả ông thủ lãnh. Sau khi các bản án được công bố, các hội viên cũ của Dòng Tên, giới quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ đã ráo riết vận động ân xá cho ông Adam.W nên bản án được đổi thành trục xuất, đuổi ra khỏi Bavaria. Ông ta chọn Thụy Sĩ, nơi lúc ấy được coi là "thủ đô" cuả hội kín, những hội có "máu mặt" nhất Âu Châu. Ở Thụy Sĩ ông Adam.W được coi là thượng khách cuả giới giàu có, quý tộc và cả những mục sư theo đạo Cải Cách đang nghiến răng thề sống chết với Vatican. Ông cũng được các trường đại học mời thuyết giảng về ý tưởng toàn cầu hoá với một chính phủ duy nhất cho loài người, một quân đội duy nhất, một ngân hàng độc nhất, xoá bỏ thuyết quốc gia cục bộ, phá vỡ biên giới giữa các nước, dẹp hết tôn giáo v.v.
Năm 1789: Tổng Bộ Thợ Đá (the Mason) Anh thành lập ở Trung Hoa một Phân Bộ Tam Điểm gọi là Hội Tam Hoàng, có liên quan mật thiết với chuà Thiếu Lâm. Mục đích lập phân bộ này là tạo biến động để gây thêm khó khăn cho triều đình Mãn Thanh.
Sau vụ toan làm loạn bị đổ bể ở Bavaria đế quốc Phổ năm 1785, hội kín Sáng Tuệ được sự chú ý cuả giới chủ nhân kỹ nghệ tại Âu Châu mà Thụy Sĩ là chốn họ gặp gỡ, nơi ông Adam Weishaupt sống lưu vong. Lần này, Tổng Bộ Trung Ương- Sáng Tuệ (the Illuminati - Grand Central Lodge) hành động cẩn thận hơn, vì mục tiêu sắp tới sẽ là một triều đại "yếu ớt" ở Âu Châu. Và họ đã chọn nước Pháp để làm thí nghiệm lần đầu cho tư tưởng "liên tiếp gây bạo loạn sẽ cướp được chính quyền"! (Tư tưởng này vào lúc đó lại thích ứng với tầng lớp công, nông nghèo khổ đang muốn nổi loạn, nó đã thành một "phong trào" có chiều hướng lây lan khắp Âu Châu. Về sau, Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đã dựa vào ý tưởng đó để soạn nên một cuốn "binh thư" gọi là "Chiến Lược Chiến Tranh Cách Mạng", Nguyễn Tất Thành (HCM), học viên cuả Trường Đại Học Công Nhân Phương Đông là người học rất thuộc lòng cuốn "binh thư" đó)
Trong tháng 5.1789: hội Sáng Tuệ bắt đầu tung ra vài cuộc tập trung người đi biểu tình và đốt phá ở thủ đô Ba Lê, Pháp. Trong lúc này, triều đình vua Louis XVI (23.8.1754 - 21.1.1793, lên ngôi 1774, thuộc giòng tộc Bourbon) phải lo đối phó với giới trí thức và nhà giàu, họ đòi hỏi về quyền dân sự cuả người dân Pháp mà họ là "đại diện"!
Ngày 14.7.1789: hàng ngàn người do hội Sáng Tuệ xúi giục khích động, rầm rộ kéo tới nhà tù Bastille ở thủ đô Pháp với cuốc, xẻng, cào cỏ, gậy gộc, dao, búa...súng và thuốc nổ. Họ tấn công và chiếm được nơi đây, chém đầu viên sĩ quan chỉ huy và giải thoát tù nhân, mở màn cho "Cuộc Cách Mạng Pháp" (the French Revolution 1789 - 1799. Vua Louis XVI tuy vẫn được tại vị và chấp nhận nhiều đòi hỏi cuả phe "cách mạng", nhưng trước áp lực của họ ngày càng tăng nên năm 1791 ông bỏ trốn và bị bắt đưa về ngục thất tại Ba Lê. Ngày 20.1.1793, vua Louis XVI bị "cách mạng" xử tội chết, ông bước lên máy chém ngày hôm sau (21.1) mà đoạn đầu đài được dựng ngay giữa đường phố thủ đô nước Pháp).
Ngay sau khi cuộc "cách mạng" đẫm máu đó thành công, một trong các lãnh tụ của biến cố này nhưng không thuộc hội kín Sáng Tuệ, ông Jean Pierre Louis de la Roche du Maine Marquis de Luchet (1740 - 1792) .. đã cho phổ biến một bản tin trong hội riêng của mình, do ông ta viết để báo động với hội viên nội bộ: ..."Cuộc cách mạng của chúng ta từ đầu đã bị dàn dựng trong bí mật bởi hội kín Sáng Tuệ. Nay cuộc cách mạng ấy đã bị họ sang đoạt và đang thao túng. Hội kín này là một tổ chức ghê gớm hơn những gì người ta biết về nó. Châu Âu không phải mục tiêu cuả Sáng Tuệ..mà toàn thế giới! Vũ khí chính của nó là tư tưởng cuả Adam Weishaupt, họ còn được trang bị súng, thuốc nổ, ám sát, bắt cóc, tống tiền và các kế hoạch xúi nông dân, thợ thuyền nổi loạn cho tới khi nhà cầm quyền sụp đổ. Những kẻ đứng đầu hội kín Sáng Tuệ gồm các quý tộc giàu có, chủ nhà băng, kỹ nghệ v.v ... là lớp người cả đời chưa từng đổ mồ hôi để đổi chén cơm, manh áo"... (bản văn này chỉ luân lưu trong nội bộ một hội kín, giới "công, nông"... nghèo và dốt không hề biết họ bị "cách mạng" lợi dụng).
Ngày 7.8.1814: Đức Giáo Hoàng Pius VII (1740 - 1823) ban một Giáo Lệnh cho phép Dòng Tên hoạt động trở lại, cũng như được trả đầy đủ các lề luật riêng đã có trước đó cuả dòng tu này. Lúc biết tin, khắp Âu Châu xôn xao rồi sóng gió nổi lên, mạnh miệng nhất là quý tộc, nhà giàu và khoa bảng đã kết án toà thánh Vatican cố tình dung dưỡng "đưá con hư hỏng" của mình. Những quốc gia Tây- Bắc Âu Châu tự nhận mình là người "Bên Này- Núi" (Cis- Montanes, dãy núi Alps), họ gọi các nước thường trung thành với tòa thánh ở Đông- Nam Âu Châu là kẻ "Bên Kia- Núi" (Ultra- Montanes). Xin xem lại phần cuối cuả Ngày 21.7. 1773 ở đầu bài).
SỰ RA ĐỜI CUẢ QUÁI VẬT QUỐC TẾ CỘNG SẢN.
"Các vĩ nhân gần như luôn là những kẻ xấu" ("Great men are almost always bad men").
"Quyền lực dẫn tới sự tha hoá và quyền lực tuyệt đối là thối nát tuyệt đối" ("Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely".
(John Emerich Edward Dallberg- Acton, 10.1.1834- 19.6. 1902, còn được biết là (Sir) Lord- John Acton, một sử gia và chính trị gia người Anh).
Trong năm 1836: Một chàng sinh viên 18 tuổi lúc đang học ở trường Đại Học Bá Linh, đã được nhận vào Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ (the Docter Club), một hội kín tổ chức trong các trường đại học để tìm những người có những ý tưởng nổi bật, táo bạo v.v. Họ đã tìm được ông Karl Heinrich Marx (5.5.1818- 14.3.1883, tên thật trong tiếng Do Thái là Moses Mordecai Marx Levy).
Năm 1841: Karl H. Marx được một hội viên cao cấp của Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ giới thiệu với Hội Cuả Sự Công Chính (the League of the Just, còn được biết dưới tên khác là the League of Just Men, Hội Những Người Công Chính, là một hệ phái vòng ngoài cuả hội kín Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League), và cái hội vòng ngoài "vô pháp luật" này cũng chỉ là một lớp vỏ bên ngoài cuả hội Sáng Tuệ. Người giới thiệu K.H. Marx làm quen hội kín đó là ông Moses (Moshe) Hess, 21.1.1812- 6.4. 1875, một triết gia Do Thái và cũng là người giữ một vai trò quan trọng trong việc đảo ngược các luận điểm cuả triết gia G.W.F Hegel, từ "tinh thần (yếu tố con người) là yếu tố chủ đạo cuả lich sử "biến thành" vật chất là yếu tố chủ đạo. Ông ta nhận xét về K. H. Marx như sau: ..."Tiến Sĩ Marx, đó là tên một thần tượng cuả tôi, người còn rất trẻ nhưng sẽ cho đám chính trị và tôn giáo thời trung cổ nếm mùi cái chết cuả họ"... ( "Dr. Marx, that is the name of my idol, is stll a very young man who will give medieval religion and politics their death blow".., cuốn The Portable Karl Marx, trang 22, tác giả Eugene Kamenka, xb 1983).
Sau này một nhà phân tích tâm lý và tâm thần học gốc Thụy Sĩ là Carl Gustav Jung (26.7. 1875- 6.6.1961) đã nói về K. H Marx như sau: ..."Marx còn chắc chắn sẽ đuổi thượng đế ra khỏi thiên đường của ổng, và kể cả sẽ kiện ông ta"...("Marx will surely chase god from his heaven, and will even sue him"...( trang 144, cuốn Mystery 666, Don E. Stanton, xb 1977). (Xem đến đây, bạn đọc sẽ không còn thấy khó hiểu vì sao một hội kín mẹ luôn lập ra các hội con ở vòng ngoài, bí mật hoặc công khai. Có làm như vậy mới vưà che dấu được đầu não chính, vưà càng dễ bịp được nhiều người, dễ qua mặt công luận cũng như nhà cầm quyền sở tại. Cộng sản ở Việt Nam cũng tổ chức hệt như vậy từ ngày họ mới hoạt động trên đất nưóc này, cũng lập ra nhiều hội bình phong bên ngoài để phân tán, làm suy yếu những tổ chức không cộng sản, vưà gạt gẫm thêm nhiều người nhẹ dạ đút đầu vô rọ).
Năm 1843: Karl H. Marx tới Ba Lê, Pháp để học thêm môn kinh tế. Tại đây ông ta làm quen và kết bạn với ông Friedrich Engels (28.11.1820- 5.8.1895, công dân Anh gốc Đức-Do Thái, một kỹ nghệ gia, triết gia, nhà khoa học xã hội. Hơn thế nữa, ông F. Engels còn là hội viên cao cấp của hội kín Thợ Hồ Tự Do (the Freemason) và là Ủy Viên Trung Ương của Ủy Hội Tam Điểm (the Trilateral Commission) mà cả hai Tổng Bộ Trung Ương (Central Grand- Lodge) cuả hai hội kín này đều đặt tại Anh. Ông F. Engels thực ra đã được hội kín sắp đặt để làm quen với K.H. Marx. Qua đó họ có thể tác động, khuyến khích K.H. Marx thăng hoa thêm trí tuệ, chịu ngồi xuống viết ra những lý thuyết gian dối mà hội kín đang âm mưu lường gạt loài người. Và để giúp K.H. Marx được yên tâm nghiên cứu và "sáng tác", thông qua ông F. Engels, hội kín cung cấp bạc tiền để ông này đủ sống một cách tương đối nhưng không có tiền dư. Đây là nguyên nhân làm cho K.H. Marx phải bị lệ thuộc vào hội kín ở Anh vì ông thường bị thiếu hụt tiền để trang trải cho cuộc sống. Từ một chàng trai trẻ 18 tuổi đời, có một bộ óc thông minh, chịu khó học hỏi, nghiên cứu v.v nhưng do thiếu kinh nghiệm xã hội, ít từng trải cuộc đời nên bị rơi vào cái bẫy của hội kín do lớp quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ giàu có ở Anh bày ra. Kết quả là hậu thế sau này, tới nay cũng còn bị mắc lừa vì cứ nguyền ruả ông K.H. Marx là cha đẻ cuả tai họa cộng sản, nhân loại không thể thấy thủ phạm chính vì đã bị che mắt rất tinh vi).
Đầu năm 1844: K.H. Marx rời nước Pháp theo ông F. Engels qua Anh sống trong hai năm ở nhà ông này để "học hỏi" thêm (gia thế ông F. Engels thuộc lớp giàu có, cha mẹ từ Đức sang Anh lập nghiệp, lúc đó họ đang làm chủ một nhà máy kéo sợi bông vải ở Lancashire ).
Năm 1846: "Hội Của Sự Công Chính" đổi tên thành Hội Cộng Sản (the Communist League) và mở "đại hội" lần thứ nhất. Nhân dịp này hội cũng "chính thức" nhận hai ông F. Engels và K. H. Marx làm hội viên. Vậy là một trang sử đẫm máu của loài người sắp được diễn ra mà triều đình nước Anh là thủ phạm chính, khi họ qua tay giới quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ, ngân hàng v.v dàn dựng một học thuyết lừa bịp nấp dưới cái tên "chủ nghĩa xã hội" hoặc gọi nôm na là "cộng sản" (cộng hết tài sản cuả loài người vào tay một chính quyền duy nhất).
Năm 1847: Hội Cộng Sản mở "đại hội" lần thứ hai ở Luân Đôn. Hai ông K. H. Marx và F. Engels được giao trách nhiệm viết bản cương lĩnh hành động cho Hội Cộng Sản. Hai người phải viết theo tài liệu cuả hội và chịu sự hướng dẫn cũng như giám sát cuả Ủy Ban Trung Ương. Ngoài ra Hội Cộng Sản cũng đưa ra thời hạn biên soạn, họ khuyến cáo hai người phải hoàn tất bản cương lĩnh trước ngày 1. 2. 1848 (sở dĩ có chuyện thúc hối như vậy vì lúc đó hội kín Sáng Tuệ đã lập xong một kế hoạch "tổng nổi loạn" khắp Âu Châu, do các hội con..con vòng ngoài như cộng sản, tam điểm, thợ đá v.v ở từng địa phương cùng phát động sau ngày 1. 2. 1848.
Những nơi họ tổ chức xúi dân nổi loạn gồm có: Bender-Thụy Sĩ ngày 1. 3, Vienna-Áo ngày 12. 3, Parma- Ý ngày 13. 3, Venice- Ý ngày 22. 3, Luân Đôn- Anh ngày 10. 4, nhiều nơi ở Tây Ban Nha ngày 7. 5, Naples- Ý ngày 15. 5, đặc biệt ở Pháp ngày 23. 2 để châm ngòi cho cách mạng Pháp lần thứ ba hay còn gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Hai" (February Revolution, 23. 2. 1848- 2. 12. 1848), trước đó cũng đã xảy ra cuộc cách mạng lần thứ hai trong năm 1830, gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Bảy" (July Revolution). Về mặt tổng thể, âm mưu nổi loạn cuả các hội cộng sản đã diễn ra đúng như kế hoạch. Tuy nhiên họ đã bị thất bại nặng nề vì chính quyền các nơi vẫn còn đủ sức mạnh để đè bẹp những cuộc bạo loạn.
Trở lại chuyện biên soạn bản cương lĩnh mà hai ngưòi nêu trên nhận trách nhiệm trước Hội Cộng Sản. Thực ra hai ông không cần phải suy nghĩ nhiều lắm về nội dung cần phải viết. Cái gọi là "tài liệu" mà Ủy Ban Trung Ương trao cho họ chính là bản cương lĩnh với 6 điểm hành động cuả hội kín Sáng Tuệ, do người sáng lập là ông Adam Weishaupt công bố ngày 1. 5. 1776. Vì thế, hai "danh nhân" lừng lẫy cuả cộng sản là F. Engels và K. H. Marx chỉ việc ngồi xuống sửa lại văn phong, thuật ngữ cuả bản cương lĩnh đó cho hợp với thời đại, và thêm vào bốn điều nữa mà Hội Cộng Sản đã chỉ thị.
Ngày 1.2.1848: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản bằng tiếng Đức (das Manifest der Kommunistichen Partei) được công bố khắp Âu Châu, vài ngày sau bản tiếng Anh (the Manifesto of the Communist Party) cũng công bố và cả hai bản đều không đề tên tác giả (đã gọi là viết mướn thì làm sao để tên người viết được chớ). Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản gồm có 10 điểm chính như sau:
(1): Bỏ quyền làm chủ đất đai và đưa tất cả các loại đất vào mục đích công cộng.
(2): Đánh thuế (hoặc sẽ thực hiện thêm) nặng vào các lợi tức thu nhập.
(3): Đánh thuế vào quyền thừa hưởng gia tài.
(4): Tịch thu hết tài sản cuả di dân và phản loạn.
(5): Tập trung hết các nguồn tín dụng tài chánh cuả quốc gia vào tay chính phủ, và chỉ có "nhà nước" mới được quyền giữ toàn bộ tổng sản lượng quốc gia.
(6): Đặt hết vấn đề giao thông như hàng hải, đường bộ và những lãnh vực truyền thông như báo chí, bưu điện, sách, in ấn, xuất bản v.v vào dưới sự kiểm soát cuả chính phủ.
(7): Sự hoạt động cuả các nhà máy và dụng cụ sản xuất phải do "nhà nước" quản lý. Đưa nông nghiệp vào đất bỏ không và cách khai thác đất phải thuộc một kế hoạch chung.
(8): Bình đẳng trách nhiệm cho tất cả những người lao động. Thiết lập một đội ngũ công nhân cho nền kỹ nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
(9): Phối hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp. Từ từ xoá bỏ sự ngăn cách giữa quốc gia và đô thị bằng sự phân bố dân số đồng đều hơn.
(10): Lập nền giáo dục miễn phí cho trẻ em với hệ thống trường công lập. Cấm dùng trẻ em lao động trong các nhà máy như hiện tại (1848). Phối hợp giữa giáo dục và kỹ nghệ sản xuất.
(Hội cộng sản, tuy là con đẻ của hội kín Sáng Tuệ, nhưng từ năm 1776 tới 1848 cũng đã hơn 70 năm. Trong thời gian đó xã hội Âu Châu đã có lắm đổi thay, kể cả dân trí nơi thành thị và nhận thức ở nông thôn cuả người dân, nói chung không còn quá "ngu" như trước. Sự thật này buộc cộng sản phải sửa lại 6 điểm hành động cuả "sư tổ" Adam Weishaupt. Nếu cứ khư khư giữ các điểm như "lật đổ hết các loại chính phủ", "tận diệt hết tôn giáo", "phá nát những nền tảng đạo lý gia đình", "cấm yêu tổ quốc" v.v thì nó quá trắng trợn, khó hấp dẫn được dư luận nên về lâu dài cộng sản khó thực hiện được mục đích. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ từng điểm trong bản tuyên ngôn nói trên cuả cộng sản, người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó cái hồn ý tưởng cuả ông Adam Weishaupt. Nghĩa là lợi dụng sự ngây thơ cuả kẻ có học, lợi dụng sự ngu dốt cuả người nghèo khổ, ít học (công nông), lợi dụng sự hung hăng, tàn bạo cuả bọn côn đồ lang bạt để tạo nên một sức mạnh rồi gây biến loạn xã hội để cướp đoạt chính quyền. Hơn thế nữa, 10 điểm trong bản tuyên ngôn đó là bản đưa ra ngoài công khai. Trong thực tế, 6 điều chính cuả hội kín Sáng Tuệ vẫn được các đảng cộng sản áp dụng trong bí mật. Cộng sản ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cuả cơn dịch bệnh là hội kín đi cướp quyền lực, nay đang còn giấu mặt sau cái gọi là "có công giải phóng, giành độc lập cho đất nước"!? Có công hay không, lịch sử cũng đã sáng tỏ rồi!).
Ngày 28.9.1864: Được sự hậu thuẫn của giới quý tộc và lớp giàu có tại Anh; Pháp; Đức; Thụy Sĩ; Tây Ban Nha v.v, cũng như được bí mật yểm trợ từ các hội kín, hai ông F. Engels và K.H.Marx công bố sự thành lập Hội Thợ Thuyền Quốc Tế (the International Workingmen Association, có thể đọc là Hội Công Nhân Quốc Tế ).
Trong các năm từ 1864 đến 1872: Khoảng thời gian này, do thường có nhiều hội viên Hội Thợ Thuyền Quốc Tế lui tới họp kín ở Geneva, Thụy Sĩ nên người ta khám phá ra hội này trong bí mật còn có tên Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản (the First Communist International, đọc gọn hơn là Quốc Tế Một (the First International). Quốc Tế Cộng Sản Một nửa kín nửa hở ra mặt làm ồn ào ở Âu Châu một thời gian, tới năm 1876 họ rút vào bí mật để tái tổ chức, chuẩn bị cho các đợt bạo loạn dữ dội hơn trong tương lai.
Tính đến tháng 3. 1865: Đã có hơn 20 hội kín không cộng sản ở khắp Âu Châu xin tham gia và sáp nhập với Hội Thợ Thuyền Quốc Tế. Tiêu biểu có những hội kín quý tộc lẫn khủng bố sau đây xin gia nhập: the Marianne; the Freres de la Republique of Lyons - Marseilles; the Fenians of Ireland; the Carbonari v.v.
Năm 1868: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản được in lại và công bố lần thứ hai. Lần này chính thức đổi tên là Tuyên Ngôn Cộng Sản (the Communist Manifesto), tên của ông Karl Heinrich Marx cũng được ghi vào bản tuyên ngôn mới này.
Trong ngày 30.04.2012, Toà soạn TCDV nhận được 2 bài viết:
1- QUỐC TẾ CỘNG SẢN và CỘNG SẢN QUỐC TẾ.
(Một Biên Khảo Về Buổi Đầu Của Cộng Sản).
2- TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG VÀ NHỮNG SỰ THỰC Ở CHIẾN TRƯỜNG AN LỘC TRONG MÙA HÈ 1972.
* Tác giả bài 1 là một quân nhân BĐQ/QLVNCH, anh tên Đỗ Như Quyên - đến Mỹ, Anh Quyên không trở lại trường mà tìm đọc các cuốn sách, tài liệu bằng Anh ngữ để viết về các trận đánh của QLVNCH, gần đây Anh đã tìm ra “đầu mối” của cái “quái thai thời đại” là Chủ Nghiã CS được “cáo Hồ” đem về áp đặt tại VN, nên Anh đã viết thành một bài biên khảo trên, và TCDV sẽ chia thành nhiều kỳ để đăng trên các DĐ, trong bài biên khảo này, tác giả đã “khám phá” ra sự liên hệ giữa “DÒNG TÊN” của Toà Thánh La Mã và chủ nghiã CS, mời qúy vị theo dõi.
Bất cứ độc giả nào có ý kiến về bài biên khảo này, chúng tôi sẵn sàng đăng tải và chuyển đến tác giả bài viết.
* Tác giả bài 2 là một Huynh Trưởng của chúng tôi, Trung Tá Nguyễn Văn Dưỡng (xin xem Tiểu sử bên dưới), qua Mỹ Ông đã trở lại trường và tốt nghiệp - Cao học Chính trị học về “Ngoại giao & Giao tế Quốc tế”, Hoa Kỳ.
TT Dưỡng là người đã „tử thủ“ An Lộc cùng với Chuẩn Tướng ANH HÙNG Lê Văn Hưng.
Bổn báo chủ nhiệm đã mất một người bạn đồng khoá 25SQTĐ tại trận chiến này, cố Đại Uý Lê Văn Hiếu, TĐ 52BĐQ, đã nằm lại nơi đây, năm ngoái, một người bạn cùng binh chủng, nguyên Đại Úy Đoàn Trọng Hiếu đã lo việc „cải táng“ cho hơn 60 anh em đồng đội đã hy sinh tại Bình Long An Lộc, trong đó có cố Đ/U LVH.
Bài viết của HT Dưỡng rất chi tiết và tỉ mỉ, ông đã mô tả các trân tấn công của VC như thế nào và quân dân ta đã giữ vững An Lộc ra sao, xin mời quý vị theo dõi.
Như thường lệ, vì hai bài viết rất dài nên Toà Soạn cũng chia ra nhiều kỳ để các DĐ đăng được đầy đủ. Quý vị nào cần ngay cả bài, liên lạc với TCDV, chúng tôi sẽ gởi đến hầu quý vị.
Xin lưu ý, vì TCDV là thành viên của hơn 150 Diễn Đàn Internet, mỗi ngày nhận được bài vở, tin tức khoảng hơn hai ngàn (2.000) Email, nên nhiều khi email của quý vị gởi cho TCDV không đến được vì lúc đó hộp thư đã quá đầy, do đó, nếu 2 ngày mà không thấy Toà soạn hồi âm, xin quý độc giả gởi lại email đó. Thông thường chúng tôi nhận được thư là hồi âm ngay, kèm theo các bài vở trong attachments.
Trân trọng.
Germany, ngày 01.05.2012
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
Quốc Tế Cộng Sản và Cộng Sản Quốc Tế.
(Một Biên Khảo Về Buổi Đầu Của Cộng Sản)
Đỗ Như Quyên
Lời Giới Thiệu.
Kính thưa bạn đọc.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, sau lúc cộng sản ở Nga thành công trong việc làm sụp đổ cả một đế chế rộng lớn vào năm 1917, sau đó họ thiết lập một "nhà nước" mang sắc thái mới lạ và rất "hấp dẫn" mà những người lãnh đạo phong trào "cách mạng" này gọi đó là chính quyền của nhân dân, chính quyền của tầng lớp nghèo khổ là công nhân và nông dân, hoặc ngắn gọn hơn thì gọi đấy là "chính quyền của giai cấp vô sản". Từ năm 1917 cho tới khi Chiến Tranh Thế Giới Lần 2 kết thúc trong năm 1945, hình mẫu của chính quyền "vô sản" ở Nga là niềm mơ ước của biết bao con tim đang khát khao tìm sự độc lập, tự do, bình đẳng v.v cho quê hương mình, lúc đó vẫn còn nằm dưới sự cai trị của chế độ vua, quan phong kiến hoặc bị xâm lăng và thống trị bởi chủ nghĩa thực dân đến từ Âu Châu, có người còn nuôi chí hướng xa hơn là mong được mang lá cờ của chính quyền "vô sản" đến khắp nơi trên thế giới. Trong vô số những người nuôi mộng ước đó, tầng lớp được cho là "trí thức, khoa bảng" đã bị thu hút mãnh liệt nên giới này không ngần ngại sự dấn thân. Họ đến với "lý tưởng cộng sản" một cách chân thành, coi lý thuyết "xã hội chủ nghĩa" như một cứu cánh cao cả nhất để mang lại hạnh phúc, thịnh vượng không những cho tổ quốc mà cho cả toàn nhân loại. Chính họ là những người đi đầu khơi dậy ngọn lửa chống áp bức, bất công, nghèo đói đang âm ỉ và dồn nén trong tầng lớp nông dân và thợ thuyền. Kết quả là từ năm 1917 đến khi các chế độ cộng sản lần lượt sụp đổ vào năm 1990, đã có rất nhiều xứ sở trải qua các cuộc bạo lọạn "cách mạng", chiến tranh "giải phóng" v.v để xoá bỏ thể chế cũ và thiết lập nên chính quyền "vô sản", và những lá cờ đỏ "buá - liềm" đã tung bay ngạo nghễ trên gần một nửa diện tích đất đai của quả địa cầu trong giai đoạn đó.
Chỉ đến khi các thành lũy cộng sản lần hồi tan rã (trừ Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn; Cuba), giới trí thức, khoa bảng từng nuôi ảo tưởng về "chủ nghĩa đại đồng" mới giật mình tỉnh ngộ khi vô số các tội ác tàn bạo của cộng sản bị phơi bày. Lúc đó họ mới biết nhiều thế hệ có ăn học, có bằng cấp như mình đã bị lừa bịp một cách nham hiểm bởi các đảng viên cộng sản lão luyện trong lãnh vực tuyên truyền. Lúc họ sáng mắt ra, dù sao, cũng đã muộn rồi. Sự sám hối của họ bây giờ chắc chắn không thể làm sống lại hàng trăm triệu nạn nhân đã bị cộng sản giết hại bằng đủ loại hình thức, trong đó cũng có rất nhiều trí thức từng can đảm lên tiếng tố cáo tội ác của cộng sản. Sự ăn năn thống hối của họ cũng không thể nào khoả lấp hoặc hàn gắn được những tan vỡ, những mất mát chia lìa của biết bao nhiêu gia đình đang sống trong ác mộng vì những người thân yêu ra đi trong tức tưởi. Và họ cũng chẳng thể một sớm, một chiều tẩy rửa được hết các "di căn" hậu họa do cộng sản để lại trong lối sống của thế hệ trẻ hôm nay như sự dối trá, lừa đảo, vô luân lý, phi đạo đức, ích kỷ, độc ác, xảo quyệt để tiến thân và nhất là bị mù loà về văn hoá, kiến thức v.v. Nhưng phải lấy công tâm để nhìn nhận, sự thức tỉnh và biết đền đáp lại những ngu muội của mình trong giới trí thức, khoa bảng một thời lầm lạc vì cộng sản, ít ra cũng xoa dịu một phần nào đó trong nỗi đau đớn chung của xã hội loài người trước thảm họa cộng sản. Tuy nhiên, không phải tất cả các trí thức, khoa bảng đều tỉnh ngộ hay biết phục thiện sau khi các sự thật ê chề của cộng sản bị đưa ra ánh sáng, trái lại có một số vẫn lì lợm tiếp tục làm công cụ cho cộng sản, chấp nhận đem tài năng và trí tuệ của mình phục vụ cho tội ác, đó là trường hợp cuả những "con ruồi" trí thức đang vo ve bên bốn "đống rác" xú uế của cộng sản còn sót lại hôm nay gồm Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn và Cuba. Đối với những người biết nhận xét, họ có thể hiểu và thông cảm phần nào cho lớp trí thức đang còn bị kẹt trong bộ máy man rợ của cộng sản tại bốn quốc gia nêu trên. Có thể họ vì an toàn cho tính mạng cá nhân, cho gia đình, vì cơm ăn áo mặc v.v nên đành ngậm miệng cúi đầu làm thân "trâu ngựa" cho chế độ. Nhưng bên cạnh đó, lại có những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v (không kể giới "nghệ sĩ") bằng cấp đầy mình đang sống ở những quốc gia không cộng sản đã cố tình bất chấp dư luận, mang "tài cao học rộng" của mình đến với chế độ cộng sản, nhất là những kẻ đó lại nói cùng một ngôn ngữ, có chung một huyết thống dân tộc tại nơi mình đến "kiếm ăn nhờ bằng cấp". Chẳng lẽ họ mù loà đến mức không thấy nỗi khổ đau của đồng bào mình?
Trong phạm vi của bài biên khảo hôm nay, chúng tôi chỉ đề cập đến trường hợp Việt Nam, vì đảng cộng sản đang thống trị trên quốc gia này được chúng tôi xác định là một tổ chức tội phạm hung hiểm nhất, quỷ quyệt xảo trá nhất, vô học và tàn bạo nhất trong lịch sử loài người với những gì tồi tệ nhất mà thế giới cộng sản trước khi chết đã gom lại và dồn hết vào cho nó. Ngoài ra, chúng tôi cũng được biết đã từ lâu lắm cho tới tận hôm nay, 2012, cộng sản Việt Nam sở dĩ còn kéo dài được sự thống trị sắt máu là do có sự chống lưng giúp đỡ từ một nhóm "siêu quyền lực" đang giấu mặt và có nguồn gốc tại Âu Châu.
Để tìm hiểu sự nghịch lý về hiện tượng trí thức Việt Nam ở hải ngoại đang tiếp tay cho tội ác ngay trên quê hương mình, chúng tôi, những người từng là quân nhân Biệt Động Quân / Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, có một thời chiến đấu không khoan nhượng với cộng sản trên chiến trường và hôm nay vẫn tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút trên mặt trận văn hoá. Vì xuất thân là những người lính, chúng tôi chẳng mong gì có được những học vị cao sang như phần lớn giới học giả, trí thức, khoa bảng v.v trong cộng đồng người Việt lưu vong hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng tìm đọc lại nhiều sách, báo, tài liệu v.v về nguồn gốc sự hình thành nên "triết thuyết" cộng sản, qua những gì được tham khảo chúng tôi mới biết rằng đồng bào mình nói chung, giới trí thức khoa bảng Việt Nam nói riêng đều hoàn toàn mù tịt về nguồn gốc ban đầu của cộng sản. Nếu có sự tìm hiểu về cộng sản từ giới trí thức, phần lớn các nghiên cứu của họ dù sâu rộng lắm cũng chỉ bắt đầu từ hai ông Karl H. Marx và Friedrich Angels trở về sau mà thôi.
Đây là một thiếu sót lớn, và cũng từ khởi điểm này mà giới trí thức người Việt đang tiếp tay với cộng sản hôm nay thực sự bị che mắt về những mưu kế độc ác của cộng sản đối với trí thức. Vì thiếu hiểu biết nên họ không biết rằng, bên cạnh những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v từ những ngày đầu hồn nhiên đem trái tim và kiến thức của mình đến với cộng sản (như đã viết ở phần trên), thì cũng có những kẻ vô lại, vô học, côn đồ, du thủ du thực v.v đi lạc đường vào vòng ảnh hưởng của cộng sản. Chính những thành phần này mới dễ bị tuyên truyền và nhồi sọ hơn thành phần có ăn học, và họ sẽ tuyệt đối trung thành với tổ chức khi đã có quyền lực ở trong tay. Và con số đảng viên thuộc thành phần hạ cấp đó luôn đông hơn số đảng viên được gọi là "trí thức". Khi một đảng cộng sản còn hoạt động trong bóng tối, khởi thủy những kẻ thành lập tổ chức tự coi là những cái đầu của đảng, sau đó giới trí thức ngây thơ sẽ được chọn đưa ra ngoài công khai để thu hút công chúng bằng những bài diễn văn rực lửa. Cùng lúc đó trong bóng tối, thành phần côn đồ sẽ tung ra các hoạt động gây xáo trộn xã hội bằng đủ loại khủng bố, gây áp lực tâm lý và buộc những người yếu bóng viá phải chấp nhận đứng vào hàng ngũ của chúng. Giai đoạn này được coi như nhằm tạo ra hai bàn chân để đưa "cách mạng" đi tới mục đích sau cùng.
Khi đã cướp được chính quyền thì thành phần đảng viên trí thức sẽ bị loại dần ra khỏi những vị trí, chức vụ quan trọng trong cơ cấu tổ chức đảng, tệ hại hơn có thể bị thanh trừng, tù đày, thủ tiêu v.v với cả ngàn lý do mà bọn vô lại ở chóp bu đưa ra. Sau đó là việc thành lập công an, mật vụ, tuyên- giáo v.v để theo dõi và trấn áp những bất mãn, chống đối từ trong nội bộ ra ngoài xã hội, gọi là an ninh (chính trị). Tiếp theo là hình thành nên lực lượng vũ trang (quân sự) để tăng thêm sức mạnh cho đảng và cũng để răn đe đối phương bên ngoài biên giới. Hai cấu trúc sau cùng được xem như hai cánh tay thép để bảo vệ sự tồn tại của đảng. Và luôn luôn nhớ rằng, chỉ có thành phần hạ cấp, vô học, tàn nhẫn, trung thành nhất mới lọt đươc vô nơi cao nhất trong đảng là "bộ chính trị". Còn lớp đảng viên tầm thường mới vào đảng, "quần chúng", trí thức v.v luôn bị "cái đầu" ở trên coi như hai bàn chân bên dưới, bọn vô lại ở chóp bu lợi dụng vào đó để đưa "đảng" đi tiếp trên con đường độc quyền thống trị mà thôi! Xin thử hỏi những vị trí thức, khoa bảng người Việt ở hải ngoại lâu nay đang giao du với Việt Cộng: "Đối với lớp trí thức gốc đảng viên từng theo họ từ ngày lập đảng, hoặc được đào tạo ngay tại những ngôi trường do chúng lập ra, những kẻ đó còn bị chúng coi rẻ như vậy thì quý vị, những người có bằng cấp ở ngoại quốc và cũng chưa từng nếm mùi "nội bộ" đảng thì họ khinh rẻ quý vị đến mức nào"? "Bị coi khinh và nghi ngờ như vậy, làm sao thiện chí (nếu có) của quý vị thực sự giúp đươc nỗi thống khổ của đồng bào"? "Quý vị nào biết cộng sản tàn độc đến mức chúng ngó lơ hết tất cả các khổ đau của xã hội, từ thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo v.v. Vì sao chúng không quan tâm? Bởi cộng sản biết rõ sẽ có quý vị lo giùm điều đó cho họ, vì tình cảm con người xuất thân những nơi dư ăn, dư mặc khó thể quay lưng trước thảm cảnh đó của đồng bào. Còn đảng cộng sản thì sao? Xin đừng hỏi điều nhân nghĩa và đạo đức với một bọn vô lại, hạ cấp, vốn xuất thân từ cặn bã của xã hội và đang ở tột đỉnh của quyền lực"! Đây là một đòn cân não mà Việt Cộng đã đánh trúng vào điểm yếu nhất của người Việt Nam lưu vong hiện nay trong vấn đề tình nghĩa, máu chảy ruột mềm. Bởi vậy bọn lưu manh mới nhởn nhơ tại vị, ngồi trên đầu cả một dân tộc và được kẻ yếu lòng cho không mỗi năm cả chục tỷ đô la.
Những người nghiên cứu về Karl H. Marx; Friedrich Angels thường dành nhiều nhất thời gian để tìm hiểu về bộ sách đồ sộ là "Tư Bản Luận". Những ai càng chú tâm vào đó thì càng lún sâu vào âm mưu lừa bịp của một bọn lưu manh đã mướn Karl H. Marx viết ra bộ sách đó. Nội dung của nó đưọc sắp đặt rất công phu, cùng với những phân tích, con số, nhận xét rất hợp lý về nền kinh tế (nói chung) của "tư bản" vào thời kỳ mà giai đoạn "cách mạng kỹ nghệ" mới bộc phát. Trong thực tế câu trả lời đích thực về mục đích cuả bộ sách ấy là gì? Xin lập lại là không có gì cả, chỉ là sự dàn dựng bằng một rừng chữ nghĩa rất uyên thâm, mục đích của nó là hớp hồn giới trí thức, làm cho họ phải say mê nghiên cứu và hy vọng đem áp dụng vào cuộc sống nhưng rồi....tất cả chỉ là ảo tưởng, là màn lừa bịp tinh vi nhất bằng sách vở.
Vậy ai là kẻ bỏ tiền ra mướn K. Marx ngồi viết nên "tác phẩm" lừa đảo đó? Xin thưa. Đó là một hội kín có tên Hội Cộng Sản (the Communist League), và cái hội cộng sản đó lại mới đổi tên từ một hội bí mật có tên là Hội Của Những Người Công Chính (the League of Just Men), chưa hết, cái hội "công chính" đó chỉ là một trong nhiều cái nhánh của ... một cành cây lớn hơn có tên là Hội Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League). Vậy làm sao biết được "cái cây" đó? Xin thưa. Chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi xa hơn, tìm về một con người, là đầu mối gây ra thảm họa cộng sản cho nhân loại. Nhân vật này đã viết ra các nền tảng ban đầu về cộng sản. Tất cả chỉ vì lòng hận thù đối với giáo hội Công Giáo, mà mục tiêu là Đức Giáo Hoàng. Con người này không ít thì nhiều cũng đã một thời làm điêu đứng cả toà thánh Vatican , và những bậc thầy của ông ta trước đó cũng gây tai tiếng khá nhiều cho giáo hội Công Giáo. Để tìm hiểu tường tận hơn, chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi ngược thời gian đến năm 1540, là năm mà Đức Giáo Hoàng Paul Đệ III cho phép sự thành lập một dòng tu, nhưng ngài không ngờ, chính dòng tu này là đầu mối tạo ra mầm mống cộng sản gần 200 năm sau đó. Phải chăng đây là một thử thách đớn đau mà Thượng Đế dành cho giáo hội Công Giáo La Mã trước các quyền lực của ma quỷ đang có mặt khắp trần gian?
Chúng tôi khi đưa ra bài biên khảo này, trước hết chỉ mong muốn giúp bạn đọc nói chung, giới trí thức thiếu trách nhiệm trước sự tồn vong của tổ quốc nói riêng, có thêm chút hiểu biết rõ ràng hơn về các mưu kế hèn hạ và nham hiểm của cộng sản, nhất là loại cộng sản cặn bã, rác rến như bọn vô lại đang chiếm đoạt quê hương chúng ta. Tuy nhiên, vì vấn đề tế nhị của bài biên khảo, nội dung có nói đến sự sa ngã của các tu sĩ trong một giai đoạn lịch sử, chúng tôi đã liên lạc và trình bày riêng với các vị đàn anh Biệt Động Quân để xin ý kiến, nhất là những vị Ki Tô hữu trong binh chủng. Quyết định sau cùng của các đàn anh là chấp nhận cho đăng bài biên khảo này trên diễn đàn Biệt Động Quân. Dù sao, chúng ta cũng không thể che giấu được sự thật của lịch sử, hơn nữa đây là vấn đề có liên đới đến công cuộc đấu tranh chung của chúng ta trước một quê hương đang còn bị ngả nghiêng vì cộng sản.
Chúng tôi mong rằng trong bạn đọc sẽ không có người lợi dụng các chi tiết, sự kiện v.v hay cắt xén nội dung của biên khảo này cho mục đích chia rẽ tôn giáo. Là một người Việt Nam, chúng ta đều biết hành động gây rẽ chia giữa các tôn giáo là một tội ác mà truyền thống đạo nghĩa của dân tộc không bao giờ chấp nhận. Quý vị có quyền trích dẫn cho mục đích học thuật, nghiên cứu hoặc sáng tác và xin ghi rõ nguồn trích dẫn.
Xin cảm tạ những ý kiến thiết thực, những tài liệu bổ xung đến từ nhiều đàn anh Biệt Động Quân để biên khảo này được hoàn tất.
Thay mặt nhóm biên soạn.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
---------------
(KỲ 3)
Chúng ta trở lại ngày 1.5.1776.
"CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM LÀ AI?: LÀ MỘT HỘI KÍN ĐÃ CHIẾM TRỌN MỘT QUỐC GIA"!
Kính thưa bạn đọc.
Xem lại 6 điểm chính trong bản cương lĩnh cuả hội kín Sáng Tuệ, chúng tôi cũng như bạn đọc, thấy ngay rằng đảng cộng sản ở Việt Nam gần như thực hiện đủ 6 điều này từ năm 1930 tới nay, 2012, và đang tiếp tục duy trì các hành động đó của một hội kín có từ thế kỷ thứ 18. Suy ra, lịch sử cũng thật công bằng vì song song với sự có mặt, tồn tại dai dẳng của cộng sản trên đất nước chúng ta thì cũng có tinh thần đối kháng cộng sản xuất hiện trong xã hội, tạo được một sức mạnh vô hình và chiến đấu bền bỉ từ năm 1930 đến hôm nay. Cộng Việt tuy lấn lướt gần một thế kỷ qua nhưng không còn hy vọng sẽ thắng được đối lực này. Phiá những người chống cộng nói chung, dù đã đối đầu với cộng sản Việt Nam cũng khá lâu trên nhiều lãnh vực như văn hoá, chính trị tới quân sự, tôn giáo, nhân quyền v.v nhưng chưa bao giờ có được một lợi thế áp đảo hẳn thế lực ma quái đó. Tại sao? Có thể vì quan niệm rằng .."người có chính nghĩa" thì phải hành động chính trực ngoài ánh sáng, công khai lập đoàn thể, hội họp, nói ra lý tưởng, kế hoạch, tổ chức nội bộ, địa chỉ v.v vì phải để công chúng biết nhằm thu hút sự ủng hộ". Trái lại, cộng sản ở Việt Nam là một hội kín trá hình, nấp trong bóng tối dưới cái tên như một đảng chính trị nên họ thấy hết, biết hết các hội, đoàn hoạt động ngoài công khai. Bởi là hội kín, thu nhận "hội viên" dĩ nhiên phải kín đáo trước công luận nên các cuộc họp "hội viên", lý lịch cán bộ, sự đi lại hoạt động, công tác của đảng viên, an ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh quốc gia v.v hội kín này phải giữ bí mật. Người cuà đảng có thể len lỏi đi các nơi, có tai mắt khắp chốn, cấu kết với thế lực hội kín đa quốc gia, biết trước những đầu mối đe dọa nên họ luôn có kế hoạch đối phó v.v. Tổ chức một bộ máy hiểm hóc như vậy và vận hành trong bóng tối mới khống chế được toàn xã hội, mà trường hợp Việt Nam là một điển hình. Người ngoài tổ chức đừng mong chi lọt vào guồng máy nội bộ cuả hội kín để dòm ngó, phá hoại sự sống còn của một băng đảng lưu manh lạc đường vào lịch sử. Tóm lại, chính sự khác biệt nhau trong phương cách tổ chức và hoạt động, giữa công khai và bí mật nên cộng sản ở Việt Nam luôn chiếm lợi thế trước những đổi thay cuả thời cuộc. Hơn thế nữa, những người Việt Nam từng chiến đấu hoặc sẽ tiếp tục đối đầu với cộng sản, từ người có nhiều kinh nghiệm chính trị tới kẻ có học thức cao v.v vẫn còn hiểu biết rất mơ hồ về hội kín ở Âu Châu. Vẫn tin rằng phương Tây, nơi các thể chế "dân chủ" với "tam quyền phân lập" được ra đời, là mẫu mực lý tưởng nhất về cấu trúc của những chính phủ pháp trị, công bằng và minh bạch... nhưng người Việt chống cộng lại không biết hầu hết các chính phủ ở Âu Châu, ở nước Mỹ đều được lập ra bởi những cá nhân hoạt động bí mật trong thế giới ...hội kín như Tam Điểm; Thợ Đá Tự Do; Sáng Tuệ v.v.
"Tam quyền phân lập", như nước Mỹ chẳng hạn, gồm Lập Pháp; Hành Pháp; Tư Pháp, cả ba đều vận hành độc lập, kiểm soát lẫn nhau nên không thể có lãnh tụ độc tài, phe nhóm độc quyền. Nhìn bên ngoài thì thấy rõ ràng như vậy nhưng bên trong thì không phải như vậy! Hãy nhìn cho kỹ vào hình cái tháp (quốc huy thứ hai) sẽ thấy trong đó có tới hai hình tam giác chớ chẳng phải một. Cái lớn ở dưới không có đỉnh nhọn, nó bị cắt ngang thành hình "tam giác" có bốn góc! Tách biệt ra hẳn ở trên cao lại có thêm một hình tam giác nhỏ hơn. Chính hình tam giác nhỏ trên đỉnh mới là nơi nắm hết quyền lực chính trị, quốc phòng, tài chánh, kinh tế Liên Bang Mỹ. Đặc biệt hơn dù nó tách ra khỏi cấu trúc (chính phủ) bên dưới nhưng vẫn thấy và kiểm soát tất. Đó là thông điệp mà hội Tam Điểm và Sáng Tuệ gởi gắm vào đó từ ngày đầu họ lập ra nước Mỹ, khó mà tin "tam quyền phân lập" ấy.
Cộng sản ở Việt Nam cũng có cấu trúc tổ chức hình tam giác như thế, vì lẽ hội kín Sáng Tuệ là cha đẻ của các đảng cộng sản. Họ cũng có ba góc cạnh căn bản bao bọc tất cả là Chính Trị; An Ninh; Quân Sự. An ninh (công an) và quân sự là hai yếu tố bảo vệ nền tảng cho đảng, từ dưới thấp nhất (xã hội) lên nơi cao nhất và bao bọc toàn khối (nội bộ). Chính trị ở chóp đỉnh là nơi kiểm soát hết tất cả, nhưng nó cũng tách biệt khỏi toàn khối và cấp dưới đừng mong biết gì về nó, đó là "bộ chính trị", nơi quy tụ những đảng viên trung thành nhất, hiểu biết rõ nhất về sự vận hành của đảng, những kẻ nhẫn tâm tàn ác nhất, về nhân cách, học vấn, kiến thức v.v là con số không! Đó là một bọn vô lại có được quyền lực nhờ các biến loạn lịch sử và biết giết người không run tay. Hôm nay những kẻ sát nhân đó cũng diện "com lê", cũng thắt "cà vạt" như ai...nhưng bản chất lưu manh, quỷ quyệt trong đầu họ vẫn còn nguyên như thời đi làm loạn. Nếu có ai mong rằng cộng sản ở Việt Nam sẽ thay đổi chính sách, cải cách chính trị, mở rộng tự do, dân chủ, nhân quyền v.v cũng như mơ tổng thống Mỹ là người Tàu, thủ tướng Tàu là người Nhật, giáo hoàng người Phi Châu. Những ai nuôi dự tính sẽ soạn kiến nghị, thư ngỏ này nọ để gởi cho cái đảng đó thì xin quý vị nên dành thời giờ "cầm đàn khảy tai trâu" vẫn tốt hơn. Những ai đã hoặc sẽ đem kiến thức khoa học, kinh nghiệm nghề nghiệp cuả mình về nước hợp tác với cộng sản với hy vọng họ sẽ học hỏi, cải thiện xã hội, dân chúng được nhờ v.v xin các vị đó nên thôi làm chuyện "gởi vàng vào tay cướp"! Tất cả các niềm tin, nỗ lực nói trên đều vô ích vì không thực tế (ở đây chúng tôi không nói tới thành phần về nước hưởng thụ hay kiếm tiền nhờ bằng cấp).
Đối với thứ cộng sản rác rưởi, cặn bã như cộng sản ở Việt Nam, đừng mong chúng từ bỏ quyền lực, và cũng đừng mong rằng các "áp lực" quốc tế làm họ kiêng dè, tuân thủ các "luật lệ" về quyền dân sự. Hơn ai hết, nhóm chóp bu cộng sản biết rất rõ nền tảng, cấu trúc các chính quyền ở Âu Châu, Mỹ chỉ là một thứ xã hội chủ nghĩa "dễ thở" hơn, "dễ nhìn" hơn với lớp áo tư bản. Hơn thế nữa, tất cả đều cùng một lò mà ra như cộng Việt, cùng có chung một "sư tổ" là ông Adam Weishaupt nên dĩ nhiên phải chống lưng lẫn nhau, cùng chơi trò tung hứng bàn cờ chính trị trên sự thống khổ của nhân loại nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Cộng sản trên đất nước chúng ta họ không sợ một "chính phủ' nào trên thế gian này! Họ chỉ lo hai điều là: "tinh thần quật khởi trong tâm thức cuả người dân Việt Nam rất mãnh liệt, tuy bị đè nén nhưng vẫn còn đó". Sách sử còn nhắc nhở: mỗi lúc dân tộc Việt Nam cùng đứng lên thì to mạnh như ngoại bang cũng phải chạy lùi. Nhưng họ thì không còn nơi nào để chạy. Điều lo thứ hai: "tinh thần đó sẽ được đánh thức, mà người Việt ở hải ngoại là nguồn tác động chính". Họ thì không thể ra ngoài kiểm soát hết được (trừ phi chủ nhà đồng lõa).
Một Cái Nhìn Khái Quát Về Hội Kín ở Âu Châu Thời Trung Cổ.
Từ đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch đến cuối thế kỷ thứ 15, Âu Châu trải qua Thời Trung Cổ (Medieval Time, 5 AD - 16 AD) dưới sức mạnh của thần quyền là giáo hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic). Thời này còn bị gọi là Thời Tăm Tối (Dark Age). Trong giai đoạn đó rất nhiều hội kín thành lập. Ban đầu là tín đồ cuả những đạo cổ xưa hơn như thờ mặt trăng, mặt trời, vũ trụ, lửa, đá v.v nhưng nay bị cấm. Họ tuy bị quan binh La Mã buộc phải cải đạo nhưng một số vẫn lén lút tụ hội, thực hiện các buổi lễ của tôn giáo mình trong bí mật. Kế đó là các sắc dân chống lại sự chiếm đóng của La Mã cũng lập hội kín. Rồi những người có kiến thức khoa học, lịch sử, thiên văn, triết lý v.v tùy theo lãnh vực mà lập hội kín để học hỏi, bàn luận những sai lầm của tòa thánh Vatican . Và lúc bấy giờ, ai bị bắt vì tham gia hội kín sẽ tử hình. Nhưng không vì thế mà dập tắt được "phong trào" hội kín, họ sống chui núp khắp nơi trong lãnh thổ đế quốc La Mã. Ngoài ra trước khi có hai đế quốc La Mã và Hy Lạp, đã có một hội kín ra đời ở Ai Cập hơn 2.000 năm trước Tây lịch, đó là hội Thợ Đá (the Mason, hội kín Tam Điểm xuất xứ từ hội này). Hội kín Thợ Đá là tổ chức đáng sợ, đáng nể nhất đối với hai đế quốc nêu trên vì hội viên toàn là những bộ óc uyên bác nhất, thông thái nhất cuả Ai Cập. Vì vậy có không ít giới quý tộc, trí thức, quân nhân La Mã cũng lén xin tham gia để mong được học hỏi các bí ẩn nằm trong ... hình tam giác ("kim tự tháp").
Đến đầu thế kỷ thứ 16 tới thứ 17 thì xã hội Âu Châu bắt đầu giai đoạn Phục Hưng (Renaissance Era, cuối Tk 15 đến 17 AD) mở đầu cho Thời Hiện Đại (Modern Time). Vào lúc này giới trí thức, quý tộc, tu sĩ v.v như bừng tỉnh khi tìm học lại những giá trị văn hoá của hai nền văn minh La - Hy, từ kiến trúc, toán học, quân sự cho tới triết lý, thiên văn, sử thi, hội họa v.v. Giáo hội tuy nghiêm khắc và cứng rắn hơn, nhưng không thể cấm cản được hoàn toàn việc lén lút tự tìm hiểu, nghiên cứu cuả giáo dân trong xã hội. Quyền lực của tòa thánh Vatican bắt đầu suy giảm. Hội kín mọc ra như nấm, các quán ăn ở hầm đá, hầm rượu, kể cả gầm cầu, nhà kho v.v đêm đêm chật kín đủ hạng người cuả xã hội Âu Châu. Họ tụ tập bàn luận đủ thứ chuyện trên đời, kể cả đọc thơ, xướng hát. Có những người thay nhau đứng trên bục cao để tranh luận, hay nói lên ý tưởng mới mẻ cuả mình về xã hội, nhân văn, khoa học v.v hoặc táo bạo hơn là đọc những bài diễn văn bốc lửa để kết tội giới thượng lưu, quý tộc và "giáo triều" Vatican. Chính ở các nơi đó mà Châu Âu rồi sẽ có thêm những triết gia, khoa học gia và cả các nhà ... cách mạng!
Từ những năm trong 1650 tới giữa thế kỷ thứ 18 là Thời Khai Sáng (Age of Enlightenment, 17- 18 AD) rồi tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution, 1750- 1850). Những hội kín của nông nô, tá điền cũng được lập ra nhằm chống lại giới địa chủ quý tộc hoặc chủ đất tỉnh lẻ. Công nhân cuả thời kỹ nghệ mới khai sinh cũng thành lập hội kín để đối đầu với tầng lớp thượng lưu giàu có làm chủ nhà máy.
Hội kín Sáng Tuệ ra đời vào lúc này, ngoài thiểu số trí thức khá giả nằm trên chóp đỉnh của hội, ba lực lượng chính mà họ nhắm vào để tuyên truyền, thu nạp là công nhân, nông dân và giới du côn, trộm cướp. Giai đoạn này trong xã hội Âu Châu đã có rất nhiều hội kín, có đủ loại lý tưởng mà họ theo đuổi, đủ thứ phe phái và..hệ phái thoát ra từ hội gốc. Vì vậy trong thế giới ngầm cũng đã xảy ra một cuộc chiến tranh khốc liệt mà sử sách không nói tới là "Chiến Tranh Giữa Các Hội Kín" (Secret Societies War). Những hội kín có nguồn gốc xa xưa về vấn đề tín ngưỡng lần hồi bị đào thải. Các hội lập ra để chống lại giáo hội Công Giáo La Mã thì bị phân hoá thành nhiều hệ phái, hoặc bị lấn lướt và sáp nhập vào những hội kín ....mạnh tiền và bạo tay hơn. Mỗi sáng bước ra đường, người dân Âu Châu thường phải bước qua những xác người bị giết chết bí ẩn bằng dao, bằng giây siết cổ, bao vải đen bao kín đầu v.v, chưa nói tới các cái chết vì bị đốt nhà, thuốc độc và thuốc nổ. Đó là những hình ảnh dễ nhìn thấy nhất trong cuộc chiến tranh-giành quyền lực của các hội kín. Quyền lực của tòa thánh Vatican bị loại hẳn ra khỏi các vương triều. Sân khấu chính trị ở Âu Châu nay các vai trò chính là những ông hoàng, bà chúa, quý tộc, trí thức và...hội kín. Tuy nhiên, dù có sự tranh giành ảnh hưởng giữa các hội kín lan ra ngấm ngầm như một cơn dịch, có nhiều tổ chức bị truy diệt, bị xoá tên nhưng riêng một hội kín không ai có thể đụng tới được là hội Thợ Đá (the Mason), "hoàng đế" cuả tất cả các hội kín. Hội này cũng có nhiều hệ phái, kể cả Tam Điểm và một hệ phái ra đời tại Anh là hội kín Thợ Đá Tự Do (the Freemason), một thế lực lập ra Liên Bang Mỹ.
Tóm lại, Âu Châu từ thế kỷ thứ 5 tới cuối thế kỷ thứ 15 đã có nhiều hội kín ra đời vì áp lực đè nén xã hội cuả giáo hội Công Giáo. Kiến thức hiểu biết về cổ sử, nhân văn, khoa học v.v phần lớn đều nằm trong tay giới tu sĩ trung thành với giáo hội. Do đó giới trí thức, người có hiểu biết buộc phải thành lập hay gia nhập hội kín để thỏa mãn sự học hỏi, nghiên cứu riêng cho mình, họ không còn sợ bị cấm đoán và trừng phạt bởi các giáo luật cuả hội thánh. Từ đầu thế kỷ thứ 16 kéo dài tới cuộc cách mạng kỹ nghệ (1750-1850), bên cạnh những xáo trộn cuả xã hội như dịch bệnh, chiến tranh, triều đại nào đó bị lật đổ v.v thì giới trí thức cũng tỏa sáng với những phát kiến mới mẻ nhất trong nhiều lãnh vực...mà người châm ngòi cho cuộc thoát ly trí tuệ ra khỏi ảnh hưởng giáo hội là nhà thám hiểm hàng hải Christopher Columbus (31.10.1451- 20.5.1506, gốc Ý Đại Lợi nhưng thần phục Tây Ban Nha). Sau đó là những nhân vật xuất chúng mà các tư tưởng, công trình cuả họ làm đổi thay sâu rộng xã hội loài người đến tận hôm nay. Tiêu biểu như Francis Bacon (22.1.1561 - 9.4.1626, triết gia người Anh); Galileo Galilei (15.2.1564- 8.1.1642, nhà thiên văn học, toán học, triết gia Ý Đại Lợi); Rene Descartes (31.3.1596- 11.2.1650, triết gia Pháp); Thomas Willis (27.1.1621- 11.11.1675, nhà khoa học Anh); Robert Boyle (25.1.1627- 31.12.1691, nhà khoa học, triết gia Anh); John Owen (1616 - 24.8.1683, giáo sư thần học Anh); Richard Lower (1631- 17.1.1691, nhà thiên nhiên học, bác sĩ Anh); John Locke (29.8.1632- 28.10.1704, triết gia Anh); Robert Hooke (28.7.1635- 3.3.1703, triết gia Anh); Isaac Newton (25.12.1643- 20.3.1727, nhà thiên văn, vật lý, toán học, thần học Anh); Francois Marie Arouet (Voltaire là bút danh, 21.11.1694- 30.5.1778, triết gia Pháp); Charles- Louis de Secondat, baron de La Brede et de Montesquieu (18.1.1689- 10.2.1755, nhà tư tưởng, triết gia Pháp); Jean Jacques Rousseau (28.6.1712- 2.7.1778, triết gia Thụy Sĩ); Georg Wihelm Friedrich Hegel (27.8.1770- 14.11.1831, triết gia Đức); Immanuel Kant (22.4.1724- 12.2.1804, triết gia Đức); Adam Smith (5.6.1723- 17.7.1790, triết gia Tô Cách Lan); Charles Robert Darwin (12.2.1809- 19.4.1882, nhà thiên nhiên học Anh); Friedrich Wihelm Nietzsche (15.10.1844- 25.8.1900, triết gia Đức) v.v.
Những người nêu trên, dĩ nhiên họ cũng phải vào hội kín như bao trí thức cùng thời tại Âu Châu, nhưng phần lớn đã gia nhập vào hội Thợ Đá (the Mason. Hội Thợ Đá có nguồc gốc ở Ai Cập, len lỏi vào Âu Châu hoạt động đã lâu đời và lạc mất đầu mối chốn xa xăm. Họ cũng không rõ lắm người xưa vì sao lập ra tổ chức này. Mãi tới năm 1717, khắp Âu Châu chỉ còn 4 phân bộ được coi là "già" nhất trong làng hội kín, họ đã tổ chức một cuộc họp tại Luân Đôn, nước Anh và bầu ra một Tổng Bộ, đổi tên thành Thợ Đá Tự Do (the Freemason). Sau đó tại mỗi nước cũng lập ra một tổng bộ, nhưng hệ thống quyền lực cuả hội này đều nằm ở nước Anh. Hội viên cuả nó là giới hoàng gia, quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ v.v chiếm đa số. Tính tới nay, 2012, khắp thế giới có hơn 7 triệu hội viên Thợ Đá Tự Do, nước Mỹ chiếm gần 4 triệu. Toàn cầu họ có hơn 40.000 phân bộ và 200 tổng bộ. Tuy có hơn 7 triệu hội viên nhưng chỉ có khoảng 600 người mới biết các bí mật về hội kín đó).
Hội kín Sáng Tuệ do ông Adam Weishaupt lập ra ngày 1.5.1776 ở vùng Baravia thuộc Phổ (Đức), là vào giai đoạn máy móc kỹ nghệ mới được khai sinh tại Âu Châu. Như đã trình bày sơ qua ở phần đầu, cũng vì mang lòng oán hận về chuyện Dòng Tên bị bức tử vào ngày 21.7.1773 bởi Đức Giáo Hoàng Clement XIV, ông ta lập hội kín này với mục đích trả thù xã hội. Với tham vọng lật đổ, đảo lộn tất cả những nền móng truyền thống cũ, từ thần quyền đến thế quyền, và thiết lập một trật tự mới mà mơ ước lớn nhất của ông là con người phải tuyệt đối được tự do. Vì thế ông đưa ra bản cương lĩnh với 6 điểm chính được coi là mới mẻ, hấp dẫn và táo bạo nhất trong thế giới hội kín vào lúc đó. Chúng ta thử xem lại 6 điểm này của hội Sáng Tuệ :
(1): Lật đổ hết tất cả các triều đại quân chủ trên toàn cầu. Trấn áp hết các hình thức chính phủ nào khác nếu có trong tương lai (Vô chính phủ).
(2): Tước bỏ quyền làm chủ đất đai và những gì có trên mặt đất của người dân (Vô tài sản, chống tư hữu).
(3): Bỏ luôn quyền thừa kế gia tài (Vô đạo đức).
(4): Cấm tiệt lòng yêu thương quê hương đất nước của riêng mình, xoá bỏ những khái niệm về quốc gia, dân tộc (Vô tổ quốc).
(5): Thiết lập một nền giáo dục chung cho trẻ em (Vô văn hoá, tuyên truyền). Dẹp luôn sự tôn kính trong gia đình, cấm hẳn vấn đề lễ lạc, cưới hỏi (Vô gia đình).
(6): Xoá bỏ hết tất cả các thứ tìn ngưỡng, tôn giáo đang có trên thế giới (Vô tôn giáo).
Đọc xong 6 điều này, chúng ta thấy đảng cộng sản ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn làm rất giỏi bài học đó của "đại sư tổ", người tạo ra cái quái thai cộng sản cách đây 236 năm !
"Dân ngu, nước khổ. Thời như vậy?
Người sáng, đất vui. Thế mới hay"!
Con người Âu Châu "sơ khai", sau giấc ngủ dài cả ngàn năm dưới bóng đêm của thế quyền và thần quyền, khi thức tỉnh (Phục Hưng) và nhận chân ra sự thật (Khai Sáng) họ chẳng còn chi để mất thì chuyện tổ quốc, gia đình, đạo đức, văn hoá, chính phủ, tài sản có mất cũng không sao! Mọi thứ sẽ là của chung cho những ai cùng sống trên quả đất này. Lý tưởng quá! Vậy là người ta xin vô hội Sáng Tuệ khá đông từ những ngày đầu. Lễ tuyên thệ nhập hội tổ chức trong bí mật với các nghi thức rất trịnh trọng. Những người gia nhập buổi đầu là giới chủ nhân kỹ nghệ, chủ ngân hàng, luật sư, trí thức v.v Họ mau chóng trở thành nhóm chóp đỉnh trong hội (cái đầu). Nhưng đọc kỹ lại 6 điều trên thì thấy toàn là chuyện khó làm đối với người giàu sang và có học. Muốn thực hiện được "lý tưởng" đó, chỉ có cách duy nhất là không ra mặt công khai, bỏ tiền ra thuê mướn hoặc kết nạp người nhẹ dạ, kẻ nghèo khổ, giới côn đồ vô lại, bọn trộm cắp lưu manh v.v và đưa họ vào các kế hoạch đi tạo biến loạn như đốt trường, phá chợ, ném thuốc nổ, ám sát viên chức, khiêu khích nhà cầm quyền, biểu tình, đình công, xúi nông dân phá huỷ nông sản, nổi loạn v.v. Một khi phiá công quyền ra tay đàn áp, sẽ là cái cớ để hội kín Sáng Tuệ kêu gọi một cuộc tổng nổi dậy hoặc một cuộc cách mạng. Các thành phần vừa kể sẽ là nền tảng (hai chân), là động lực vận hành chính cho tổ chức mỗi khi đi làm loạn. Tầng hạ cấp đó hội Sáng Tuệ cần rất đông nhưng cũng sẽ đào thải rất nhiều vì họ chỉ là lớp lót đường. Chỉ có một con số rất nhỏ trong tầng đáy đó mới được đưa lên cấp cao hơn, nếu kẻ đó có những tính cách đặc biệt khác người, nhất là phải trung thành và kín miệng. Hầu hết các cơ cấu quan trọng nhất trong hội đều lọt vào tay nhóm quyền lực ở chóp đỉnh. Các vị trí quan trọng thấp hơn cũng được giao cho tay chân tin cậy, người thân cuả nhóm ở trên cao.
Lúc bấy giờ ở những nước như Nga; Phổ; Pháp; Anh; Tây Ban Nha; Ý Đại Lợi v.v có khá nhiều nhà máy, khu kỹ nghệ .. phun khói mịt mù. Các khu phố, xóm nhà lụp xụp tồi tàn cũng mọc lên gần đó, nơi những người thợ thở trong bụi khói cùng với bệnh tật, trộm cướp, gái mãi dâm lui tới thường xuyên. Giới nông dân bỏ ruộng đồng dồn về thành phố kiếm việc làm, không có việc thì lang thang phiêu bạt, gặp gì làm nấy hoặc túng quá cũng làm liều, kể cả được mang danh là đi làm ...cách mạng. Những cuộc đời bất hạnh đó, là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào nhất cho các hội kín. Là nơi những tâm hồn mộc mạc, ít học, thiếu thốn rất dễ bị thu hút bởi các lý luận về nhân sinh, cuộc sống và lý tưởng ...cách mạng!
Con đường cách mạng lối đó cũng chính là con đường mà Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã đi làm ...cách mạng. Thế rồi ông chết đi, nhưng để lại trên quê hương Việt Nam một băng đảng hội kín với vô số những tội ác ngập đầu. Những kẻ sống bằng bạo lực, cướp chủ quyền đất nước cuả dân tộc Việt Nam nhưng mạo xưng là đi làm cách mạng, là giải phóng quê hương!?
Kính mời bạn đọc trở lại phần nói về hội Sáng Tuệ.
Giữa tháng 7.1785: Một hội viên Sáng Tuệ bị sét đánh chết lúc trên đường đi tới vùng Silesia, tỉnh Bavaria thuộc Phổ (Bắc- Tiệp Khắc, Tây Nam- Ba Lan ngày nay). Nhà chức trách địa phương cho khám xác nạn nhân, họ tìm được một bức thư quan trọng giấu trong người. Đây là một bức thư tối mật mà hội Sáng Tuệ gởi đến các phân bộ chuẩn bị cho ngày "tổng nổi loạn", do tổng bộ tổ chức nhiều nơi ở Bavaria. Chính quyền liền báo động trong toàn tỉnh. Họ tung ra nhiều cuộc lùng bắt hội viên Sáng Tuệ suốt 14 tháng. Ngay cả thủ lãnh, ông Adam Weishaupt cũng không chạy thoát.
Năm 1786: Hàng trăm hội viên cao cấp của Sáng Tuệ bị đưa ra toà Bavaria xét xử. Hầu hết đều bị kết tội âm mưu gây bạo loạn, phản nghịch với bản án là tử hình, trong đó có cả ông thủ lãnh. Sau khi các bản án được công bố, các hội viên cũ của Dòng Tên, giới quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ đã ráo riết vận động ân xá cho ông Adam.W nên bản án được đổi thành trục xuất, đuổi ra khỏi Bavaria. Ông ta chọn Thụy Sĩ, nơi lúc ấy được coi là "thủ đô" cuả hội kín, những hội có "máu mặt" nhất Âu Châu. Ở Thụy Sĩ ông Adam.W được coi là thượng khách cuả giới giàu có, quý tộc và cả những mục sư theo đạo Cải Cách đang nghiến răng thề sống chết với Vatican. Ông cũng được các trường đại học mời thuyết giảng về ý tưởng toàn cầu hoá với một chính phủ duy nhất cho loài người, một quân đội duy nhất, một ngân hàng độc nhất, xoá bỏ thuyết quốc gia cục bộ, phá vỡ biên giới giữa các nước, dẹp hết tôn giáo v.v.
Năm 1789: Tổng Bộ Thợ Đá (the Mason) Anh thành lập ở Trung Hoa một Phân Bộ Tam Điểm gọi là Hội Tam Hoàng, có liên quan mật thiết với chuà Thiếu Lâm. Mục đích lập phân bộ này là tạo biến động để gây thêm khó khăn cho triều đình Mãn Thanh.
Sau vụ toan làm loạn bị đổ bể ở Bavaria đế quốc Phổ năm 1785, hội kín Sáng Tuệ được sự chú ý cuả giới chủ nhân kỹ nghệ tại Âu Châu mà Thụy Sĩ là chốn họ gặp gỡ, nơi ông Adam Weishaupt sống lưu vong. Lần này, Tổng Bộ Trung Ương- Sáng Tuệ (the Illuminati - Grand Central Lodge) hành động cẩn thận hơn, vì mục tiêu sắp tới sẽ là một triều đại "yếu ớt" ở Âu Châu. Và họ đã chọn nước Pháp để làm thí nghiệm lần đầu cho tư tưởng "liên tiếp gây bạo loạn sẽ cướp được chính quyền"! (Tư tưởng này vào lúc đó lại thích ứng với tầng lớp công, nông nghèo khổ đang muốn nổi loạn, nó đã thành một "phong trào" có chiều hướng lây lan khắp Âu Châu. Về sau, Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đã dựa vào ý tưởng đó để soạn nên một cuốn "binh thư" gọi là "Chiến Lược Chiến Tranh Cách Mạng", Nguyễn Tất Thành (HCM), học viên cuả Trường Đại Học Công Nhân Phương Đông là người học rất thuộc lòng cuốn "binh thư" đó)
Trong tháng 5.1789: hội Sáng Tuệ bắt đầu tung ra vài cuộc tập trung người đi biểu tình và đốt phá ở thủ đô Ba Lê, Pháp. Trong lúc này, triều đình vua Louis XVI (23.8.1754 - 21.1.1793, lên ngôi 1774, thuộc giòng tộc Bourbon) phải lo đối phó với giới trí thức và nhà giàu, họ đòi hỏi về quyền dân sự cuả người dân Pháp mà họ là "đại diện"!
Ngày 14.7.1789: hàng ngàn người do hội Sáng Tuệ xúi giục khích động, rầm rộ kéo tới nhà tù Bastille ở thủ đô Pháp với cuốc, xẻng, cào cỏ, gậy gộc, dao, búa...súng và thuốc nổ. Họ tấn công và chiếm được nơi đây, chém đầu viên sĩ quan chỉ huy và giải thoát tù nhân, mở màn cho "Cuộc Cách Mạng Pháp" (the French Revolution 1789 - 1799. Vua Louis XVI tuy vẫn được tại vị và chấp nhận nhiều đòi hỏi cuả phe "cách mạng", nhưng trước áp lực của họ ngày càng tăng nên năm 1791 ông bỏ trốn và bị bắt đưa về ngục thất tại Ba Lê. Ngày 20.1.1793, vua Louis XVI bị "cách mạng" xử tội chết, ông bước lên máy chém ngày hôm sau (21.1) mà đoạn đầu đài được dựng ngay giữa đường phố thủ đô nước Pháp).
Ngay sau khi cuộc "cách mạng" đẫm máu đó thành công, một trong các lãnh tụ của biến cố này nhưng không thuộc hội kín Sáng Tuệ, ông Jean Pierre Louis de la Roche du Maine Marquis de Luchet (1740 - 1792) .. đã cho phổ biến một bản tin trong hội riêng của mình, do ông ta viết để báo động với hội viên nội bộ: ..."Cuộc cách mạng của chúng ta từ đầu đã bị dàn dựng trong bí mật bởi hội kín Sáng Tuệ. Nay cuộc cách mạng ấy đã bị họ sang đoạt và đang thao túng. Hội kín này là một tổ chức ghê gớm hơn những gì người ta biết về nó. Châu Âu không phải mục tiêu cuả Sáng Tuệ..mà toàn thế giới! Vũ khí chính của nó là tư tưởng cuả Adam Weishaupt, họ còn được trang bị súng, thuốc nổ, ám sát, bắt cóc, tống tiền và các kế hoạch xúi nông dân, thợ thuyền nổi loạn cho tới khi nhà cầm quyền sụp đổ. Những kẻ đứng đầu hội kín Sáng Tuệ gồm các quý tộc giàu có, chủ nhà băng, kỹ nghệ v.v ... là lớp người cả đời chưa từng đổ mồ hôi để đổi chén cơm, manh áo"... (bản văn này chỉ luân lưu trong nội bộ một hội kín, giới "công, nông"... nghèo và dốt không hề biết họ bị "cách mạng" lợi dụng).
Ngày 7.8.1814: Đức Giáo Hoàng Pius VII (1740 - 1823) ban một Giáo Lệnh cho phép Dòng Tên hoạt động trở lại, cũng như được trả đầy đủ các lề luật riêng đã có trước đó cuả dòng tu này. Lúc biết tin, khắp Âu Châu xôn xao rồi sóng gió nổi lên, mạnh miệng nhất là quý tộc, nhà giàu và khoa bảng đã kết án toà thánh Vatican cố tình dung dưỡng "đưá con hư hỏng" của mình. Những quốc gia Tây- Bắc Âu Châu tự nhận mình là người "Bên Này- Núi" (Cis- Montanes, dãy núi Alps), họ gọi các nước thường trung thành với tòa thánh ở Đông- Nam Âu Châu là kẻ "Bên Kia- Núi" (Ultra- Montanes). Xin xem lại phần cuối cuả Ngày 21.7. 1773 ở đầu bài).
SỰ RA ĐỜI CUẢ QUÁI VẬT QUỐC TẾ CỘNG SẢN.
"Các vĩ nhân gần như luôn là những kẻ xấu" ("Great men are almost always bad men").
"Quyền lực dẫn tới sự tha hoá và quyền lực tuyệt đối là thối nát tuyệt đối" ("Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely".
(John Emerich Edward Dallberg- Acton, 10.1.1834- 19.6. 1902, còn được biết là (Sir) Lord- John Acton, một sử gia và chính trị gia người Anh).
Trong năm 1836: Một chàng sinh viên 18 tuổi lúc đang học ở trường Đại Học Bá Linh, đã được nhận vào Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ (the Docter Club), một hội kín tổ chức trong các trường đại học để tìm những người có những ý tưởng nổi bật, táo bạo v.v. Họ đã tìm được ông Karl Heinrich Marx (5.5.1818- 14.3.1883, tên thật trong tiếng Do Thái là Moses Mordecai Marx Levy).
Năm 1841: Karl H. Marx được một hội viên cao cấp của Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ giới thiệu với Hội Cuả Sự Công Chính (the League of the Just, còn được biết dưới tên khác là the League of Just Men, Hội Những Người Công Chính, là một hệ phái vòng ngoài cuả hội kín Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League), và cái hội vòng ngoài "vô pháp luật" này cũng chỉ là một lớp vỏ bên ngoài cuả hội Sáng Tuệ. Người giới thiệu K.H. Marx làm quen hội kín đó là ông Moses (Moshe) Hess, 21.1.1812- 6.4. 1875, một triết gia Do Thái và cũng là người giữ một vai trò quan trọng trong việc đảo ngược các luận điểm cuả triết gia G.W.F Hegel, từ "tinh thần (yếu tố con người) là yếu tố chủ đạo cuả lich sử "biến thành" vật chất là yếu tố chủ đạo. Ông ta nhận xét về K. H. Marx như sau: ..."Tiến Sĩ Marx, đó là tên một thần tượng cuả tôi, người còn rất trẻ nhưng sẽ cho đám chính trị và tôn giáo thời trung cổ nếm mùi cái chết cuả họ"... ( "Dr. Marx, that is the name of my idol, is stll a very young man who will give medieval religion and politics their death blow".., cuốn The Portable Karl Marx, trang 22, tác giả Eugene Kamenka, xb 1983).
Sau này một nhà phân tích tâm lý và tâm thần học gốc Thụy Sĩ là Carl Gustav Jung (26.7. 1875- 6.6.1961) đã nói về K. H Marx như sau: ..."Marx còn chắc chắn sẽ đuổi thượng đế ra khỏi thiên đường của ổng, và kể cả sẽ kiện ông ta"...("Marx will surely chase god from his heaven, and will even sue him"...( trang 144, cuốn Mystery 666, Don E. Stanton, xb 1977). (Xem đến đây, bạn đọc sẽ không còn thấy khó hiểu vì sao một hội kín mẹ luôn lập ra các hội con ở vòng ngoài, bí mật hoặc công khai. Có làm như vậy mới vưà che dấu được đầu não chính, vưà càng dễ bịp được nhiều người, dễ qua mặt công luận cũng như nhà cầm quyền sở tại. Cộng sản ở Việt Nam cũng tổ chức hệt như vậy từ ngày họ mới hoạt động trên đất nưóc này, cũng lập ra nhiều hội bình phong bên ngoài để phân tán, làm suy yếu những tổ chức không cộng sản, vưà gạt gẫm thêm nhiều người nhẹ dạ đút đầu vô rọ).
Năm 1843: Karl H. Marx tới Ba Lê, Pháp để học thêm môn kinh tế. Tại đây ông ta làm quen và kết bạn với ông Friedrich Engels (28.11.1820- 5.8.1895, công dân Anh gốc Đức-Do Thái, một kỹ nghệ gia, triết gia, nhà khoa học xã hội. Hơn thế nữa, ông F. Engels còn là hội viên cao cấp của hội kín Thợ Hồ Tự Do (the Freemason) và là Ủy Viên Trung Ương của Ủy Hội Tam Điểm (the Trilateral Commission) mà cả hai Tổng Bộ Trung Ương (Central Grand- Lodge) cuả hai hội kín này đều đặt tại Anh. Ông F. Engels thực ra đã được hội kín sắp đặt để làm quen với K.H. Marx. Qua đó họ có thể tác động, khuyến khích K.H. Marx thăng hoa thêm trí tuệ, chịu ngồi xuống viết ra những lý thuyết gian dối mà hội kín đang âm mưu lường gạt loài người. Và để giúp K.H. Marx được yên tâm nghiên cứu và "sáng tác", thông qua ông F. Engels, hội kín cung cấp bạc tiền để ông này đủ sống một cách tương đối nhưng không có tiền dư. Đây là nguyên nhân làm cho K.H. Marx phải bị lệ thuộc vào hội kín ở Anh vì ông thường bị thiếu hụt tiền để trang trải cho cuộc sống. Từ một chàng trai trẻ 18 tuổi đời, có một bộ óc thông minh, chịu khó học hỏi, nghiên cứu v.v nhưng do thiếu kinh nghiệm xã hội, ít từng trải cuộc đời nên bị rơi vào cái bẫy của hội kín do lớp quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ giàu có ở Anh bày ra. Kết quả là hậu thế sau này, tới nay cũng còn bị mắc lừa vì cứ nguyền ruả ông K.H. Marx là cha đẻ cuả tai họa cộng sản, nhân loại không thể thấy thủ phạm chính vì đã bị che mắt rất tinh vi).
Đầu năm 1844: K.H. Marx rời nước Pháp theo ông F. Engels qua Anh sống trong hai năm ở nhà ông này để "học hỏi" thêm (gia thế ông F. Engels thuộc lớp giàu có, cha mẹ từ Đức sang Anh lập nghiệp, lúc đó họ đang làm chủ một nhà máy kéo sợi bông vải ở Lancashire ).
Năm 1846: "Hội Của Sự Công Chính" đổi tên thành Hội Cộng Sản (the Communist League) và mở "đại hội" lần thứ nhất. Nhân dịp này hội cũng "chính thức" nhận hai ông F. Engels và K. H. Marx làm hội viên. Vậy là một trang sử đẫm máu của loài người sắp được diễn ra mà triều đình nước Anh là thủ phạm chính, khi họ qua tay giới quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ, ngân hàng v.v dàn dựng một học thuyết lừa bịp nấp dưới cái tên "chủ nghĩa xã hội" hoặc gọi nôm na là "cộng sản" (cộng hết tài sản cuả loài người vào tay một chính quyền duy nhất).
Năm 1847: Hội Cộng Sản mở "đại hội" lần thứ hai ở Luân Đôn. Hai ông K. H. Marx và F. Engels được giao trách nhiệm viết bản cương lĩnh hành động cho Hội Cộng Sản. Hai người phải viết theo tài liệu cuả hội và chịu sự hướng dẫn cũng như giám sát cuả Ủy Ban Trung Ương. Ngoài ra Hội Cộng Sản cũng đưa ra thời hạn biên soạn, họ khuyến cáo hai người phải hoàn tất bản cương lĩnh trước ngày 1. 2. 1848 (sở dĩ có chuyện thúc hối như vậy vì lúc đó hội kín Sáng Tuệ đã lập xong một kế hoạch "tổng nổi loạn" khắp Âu Châu, do các hội con..con vòng ngoài như cộng sản, tam điểm, thợ đá v.v ở từng địa phương cùng phát động sau ngày 1. 2. 1848.
Những nơi họ tổ chức xúi dân nổi loạn gồm có: Bender-Thụy Sĩ ngày 1. 3, Vienna-Áo ngày 12. 3, Parma- Ý ngày 13. 3, Venice- Ý ngày 22. 3, Luân Đôn- Anh ngày 10. 4, nhiều nơi ở Tây Ban Nha ngày 7. 5, Naples- Ý ngày 15. 5, đặc biệt ở Pháp ngày 23. 2 để châm ngòi cho cách mạng Pháp lần thứ ba hay còn gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Hai" (February Revolution, 23. 2. 1848- 2. 12. 1848), trước đó cũng đã xảy ra cuộc cách mạng lần thứ hai trong năm 1830, gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Bảy" (July Revolution). Về mặt tổng thể, âm mưu nổi loạn cuả các hội cộng sản đã diễn ra đúng như kế hoạch. Tuy nhiên họ đã bị thất bại nặng nề vì chính quyền các nơi vẫn còn đủ sức mạnh để đè bẹp những cuộc bạo loạn.
Trở lại chuyện biên soạn bản cương lĩnh mà hai ngưòi nêu trên nhận trách nhiệm trước Hội Cộng Sản. Thực ra hai ông không cần phải suy nghĩ nhiều lắm về nội dung cần phải viết. Cái gọi là "tài liệu" mà Ủy Ban Trung Ương trao cho họ chính là bản cương lĩnh với 6 điểm hành động cuả hội kín Sáng Tuệ, do người sáng lập là ông Adam Weishaupt công bố ngày 1. 5. 1776. Vì thế, hai "danh nhân" lừng lẫy cuả cộng sản là F. Engels và K. H. Marx chỉ việc ngồi xuống sửa lại văn phong, thuật ngữ cuả bản cương lĩnh đó cho hợp với thời đại, và thêm vào bốn điều nữa mà Hội Cộng Sản đã chỉ thị.
Ngày 1.2.1848: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản bằng tiếng Đức (das Manifest der Kommunistichen Partei) được công bố khắp Âu Châu, vài ngày sau bản tiếng Anh (the Manifesto of the Communist Party) cũng công bố và cả hai bản đều không đề tên tác giả (đã gọi là viết mướn thì làm sao để tên người viết được chớ). Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản gồm có 10 điểm chính như sau:
(1): Bỏ quyền làm chủ đất đai và đưa tất cả các loại đất vào mục đích công cộng.
(2): Đánh thuế (hoặc sẽ thực hiện thêm) nặng vào các lợi tức thu nhập.
(3): Đánh thuế vào quyền thừa hưởng gia tài.
(4): Tịch thu hết tài sản cuả di dân và phản loạn.
(5): Tập trung hết các nguồn tín dụng tài chánh cuả quốc gia vào tay chính phủ, và chỉ có "nhà nước" mới được quyền giữ toàn bộ tổng sản lượng quốc gia.
(6): Đặt hết vấn đề giao thông như hàng hải, đường bộ và những lãnh vực truyền thông như báo chí, bưu điện, sách, in ấn, xuất bản v.v vào dưới sự kiểm soát cuả chính phủ.
(7): Sự hoạt động cuả các nhà máy và dụng cụ sản xuất phải do "nhà nước" quản lý. Đưa nông nghiệp vào đất bỏ không và cách khai thác đất phải thuộc một kế hoạch chung.
(8): Bình đẳng trách nhiệm cho tất cả những người lao động. Thiết lập một đội ngũ công nhân cho nền kỹ nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
(9): Phối hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp. Từ từ xoá bỏ sự ngăn cách giữa quốc gia và đô thị bằng sự phân bố dân số đồng đều hơn.
(10): Lập nền giáo dục miễn phí cho trẻ em với hệ thống trường công lập. Cấm dùng trẻ em lao động trong các nhà máy như hiện tại (1848). Phối hợp giữa giáo dục và kỹ nghệ sản xuất.
(Hội cộng sản, tuy là con đẻ của hội kín Sáng Tuệ, nhưng từ năm 1776 tới 1848 cũng đã hơn 70 năm. Trong thời gian đó xã hội Âu Châu đã có lắm đổi thay, kể cả dân trí nơi thành thị và nhận thức ở nông thôn cuả người dân, nói chung không còn quá "ngu" như trước. Sự thật này buộc cộng sản phải sửa lại 6 điểm hành động cuả "sư tổ" Adam Weishaupt. Nếu cứ khư khư giữ các điểm như "lật đổ hết các loại chính phủ", "tận diệt hết tôn giáo", "phá nát những nền tảng đạo lý gia đình", "cấm yêu tổ quốc" v.v thì nó quá trắng trợn, khó hấp dẫn được dư luận nên về lâu dài cộng sản khó thực hiện được mục đích. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ từng điểm trong bản tuyên ngôn nói trên cuả cộng sản, người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó cái hồn ý tưởng cuả ông Adam Weishaupt. Nghĩa là lợi dụng sự ngây thơ cuả kẻ có học, lợi dụng sự ngu dốt cuả người nghèo khổ, ít học (công nông), lợi dụng sự hung hăng, tàn bạo cuả bọn côn đồ lang bạt để tạo nên một sức mạnh rồi gây biến loạn xã hội để cướp đoạt chính quyền. Hơn thế nữa, 10 điểm trong bản tuyên ngôn đó là bản đưa ra ngoài công khai. Trong thực tế, 6 điều chính cuả hội kín Sáng Tuệ vẫn được các đảng cộng sản áp dụng trong bí mật. Cộng sản ở Việt Nam là một ví dụ điển hình cuả cơn dịch bệnh là hội kín đi cướp quyền lực, nay đang còn giấu mặt sau cái gọi là "có công giải phóng, giành độc lập cho đất nước"!? Có công hay không, lịch sử cũng đã sáng tỏ rồi!).
Ngày 28.9.1864: Được sự hậu thuẫn của giới quý tộc và lớp giàu có tại Anh; Pháp; Đức; Thụy Sĩ; Tây Ban Nha v.v, cũng như được bí mật yểm trợ từ các hội kín, hai ông F. Engels và K.H.Marx công bố sự thành lập Hội Thợ Thuyền Quốc Tế (the International Workingmen Association, có thể đọc là Hội Công Nhân Quốc Tế ).
Trong các năm từ 1864 đến 1872: Khoảng thời gian này, do thường có nhiều hội viên Hội Thợ Thuyền Quốc Tế lui tới họp kín ở Geneva, Thụy Sĩ nên người ta khám phá ra hội này trong bí mật còn có tên Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản (the First Communist International, đọc gọn hơn là Quốc Tế Một (the First International). Quốc Tế Cộng Sản Một nửa kín nửa hở ra mặt làm ồn ào ở Âu Châu một thời gian, tới năm 1876 họ rút vào bí mật để tái tổ chức, chuẩn bị cho các đợt bạo loạn dữ dội hơn trong tương lai.
Tính đến tháng 3. 1865: Đã có hơn 20 hội kín không cộng sản ở khắp Âu Châu xin tham gia và sáp nhập với Hội Thợ Thuyền Quốc Tế. Tiêu biểu có những hội kín quý tộc lẫn khủng bố sau đây xin gia nhập: the Marianne; the Freres de la Republique of Lyons - Marseilles; the Fenians of Ireland; the Carbonari v.v.
Năm 1868: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản được in lại và công bố lần thứ hai. Lần này chính thức đổi tên là Tuyên Ngôn Cộng Sản (the Communist Manifesto), tên của ông Karl Heinrich Marx cũng được ghi vào bản tuyên ngôn mới này.
Web page Updated ngày 19/5/2012