Nghe các Đài Phát thanh
RFA/Vietnamese - RFI/Vietnamese - BBC/Vietnamese - VOA/Vietnamese - Little Saigon TV - Đài VNI TV - Đài Sagon TV
Ngoại Giao Việt Nam Đứng Ở Đâu? Phó Chủ tịch Nước Trung Hoa, Tập Cận Bình, Sang Việt Nam Làm gì?
Tác Giả: Phạm Trần
Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam tái khẳng định Việt Nam “không đi với nước này chống lại nước kia; không tham gia các liên minh gây đối đầu, căng thẳng”.
Trọng đưa ra lập trường này tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 27 tổ chức tại Hà Nội ngảy 12-12 (2011), 8 ngày trước khi Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình thăm chính thức Việt Nam từ ngày 20 – 22/12 (2011).
Tập Cận Bình, sinh năm 1953 còn là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, đứng hàng thứ nhì trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Cộng và là người sẽ thay Hồ Cẩm Đào lãnh đạo đất nước trên 1 tỷ người vào năm 2013.
Bản tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết họ Tập thăm Việt Nam do lời mời của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan.
Nhưng đây là chuyến đi Việt Nam đầu tiên của một Lãnh đạo cao cấp nhất Trung Hoa kể từ khi Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam công khai xác nhận chủ quyền bất dịch của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Hoa dùng võ lực chiếm mất năm 1974, khi ấy thuộc quyền kiểm soát của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa ờ miền Nam Việt Nam.
Dũng cũng xác định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, nơi Trung Cộng đã chiếm 7 đảo đá ngầm từ năm 1988.
Hiện nay theo lời Dũng, Việt Nam kiểm soát 21 đảo ờ Trường Sa và “còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của VN ở vùng biển này”.
Ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn tranh chấp chủ quyền với Đài Loan chiếm 1 đảo nổi và Phi Luật Tân chiếm 5 đảo. Mã Lai Á và Brunei cũng đòi chủ quyền trên vùng biển nhưng không giữ đảo nào.
Tại Phiên họp của Quốc Hội ngày 25/11 (2011), Dũng tuyên bố : “Việt Nam khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỷ 17, chúng ta làm chủ khi hai quần đảo này chưa có bất kỳ một quốc gia nào….”
“…Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của chúng ta phù hợp Hiến chương LHQ, Công ước luật biển, Tuyên bố DOC (Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông, Decraration Of Conduct)…”
“…Chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa như thế nào? Tôi muốn nói rõ chủ trương nghiêm túc thực hiện Công ước Luật Biển, Tuyên bố DOC và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Các Nguyên tắc mà Dũng đề cập đến gồm có 6 điểm ký kết giữa Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư và Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch nước Trung Hoa ngày 11/10 (2011) tại Bắc Kinh, trong đó có vấn đề “hợp tác cùng phát triển” trên các vùng biển tranh chấp giữa 2 nước đã bị dư luận trong và ngòai nước lên án Trọng nhượng bộ đòi hỏi phi pháp của Hồ Cẩm Đào, vì đó là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông.
Hai điều quan trọng này viết nguyên văn như sau :
4. “Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
5. “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Như vậy, chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình từ 20 đến 22/12 (2011) không nên coi là mấy ngày viếng thăm xã giao bình thường mà chắc chắn có gắn với lời tuyên bố về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Nguyễn Tấn Dũng.
TRỌNG NÓI GÌ ?
Nhưng liệu chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình có liên quan đến lời tuyên bố “đón đầu” của Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 12/12 (2011) không ?
Tại Hội nghị Ngoại giao lần 27 có mặt tất cả các Đại sứ và Tham tán Ngọai giao ở nước ngoài, đề tài : “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng” đã được thảo luận.
Trọng đã nói với đội ngũ “tai mắt” của đảng ở nước ngoài lần đầu tiên kề từ khi lên chức Tổng Bí thư đảng tháng 1/2011 rằng : “ Hội nghị của chúng ta họp vào một thời điểm khá đặc biệt. Năm 2011 vừa tròn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), 25 năm nhân dân ta tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về đối nội và đối ngoại.”
Vậy thành tựu đối ngọai trong ¼ Thế kỷ qua đã đem lại những kết qủa gì ?
Thành qủa lớn nhất của thập niên 80, theo lời Trọng là Việt Nam : “ Đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các cường quốc và các trung tâm hàng đầu thế giới.”
Thật ra Việt Nam đã buộc phải “Đồi mới hay là chết”, theo lời Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Khoá VII, sau 10 năm mê muội áp đặt đường lối kinh tế chỉ huy, tập trung bao cấp theo kiểu Liên Sô đã làm cho dân chúng đói nghèo, kinh tế kiệt quệ.
Sau khi Việt Nam để cho dân tự do làm ăn và mở cửa mời tư bản ngọai quốc vào buôn bán , cộng đồng thế giới đã đáp lại lời mời của Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đảng VI nên Việt Nam đã hết đói.
Áp lực cấm vận và cô lập Việt Nam của Quốc tế cũng được gỡ bỏ sau khi Việt Nam, do áp lực nếu muốn tái lập bang giao của Tầu, đã rút quân khỏi Cao Miên sau 10 năm xâm chiếm nước này.
Báo cáo chính thức cho biết Việt Nam có 15 ngàn binh sỹ thiệt mạng và trên 30 ngàn người khác bị thương. Quân Miên Khmer đỏ cũng thiệt hại tương tự. Nhưng số thương vong thật của đôi bên sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy vì bên nào cũng dấu kín.
Vì vậy nếu Trọng bảo Việt Nam “đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế “ của Thế giới, đứng đầu bởi Hoa Kỳ là nói khống.
Trong diễn văn ngọai giao quan trọng này, Trọng cũng đã nhiều lần lập lại đường lối ngọai giao của Việt Nam đã quyết định tại Đại hội đảng XI tháng 1/2011 là :“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh.”
Tuy nhiên Trọng cũng thận trọng khi nói đến ảnh hưởng của Cuộc cách mạng hoa nhài ở Bắc Phi và Trung Đông từ hồi đầu năm 2011 và hiện còn tiếp diễn ở Syria rằng : “Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Những chuyển biến rộng lớn, sâu sắc về kinh tế chính trị đang tác động, làm ảnh hưởng, thậm chí làm thay đổi diện mạo của hế giới và quan hệ giữa các quốc gia. Ở nhiều khu vực đang diễn ra những xung đột xã hội nghiêm trọng mà nổi lên trong thời gian gần đây là những rung động ở Bắc Phi, Trung Cận Đông; các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, sự can thiệp thô bạo từ bên ngoài; nạn khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, kể cả trên biển, chạy đua vũ trang, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, thảm họa thiên nhiên diễn ra gay gắt, phức tạp làm cho thế giới trở nên bất an hơn.”
Do đó, Trọng yêu cầu : “ Ngành ngoại giao cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành hữu quan, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; đồng thời tăng cường đấu tranh dư luận, đấu tranh pháp lý bằng những luận cứ sắc bén cũng như thông qua đối thoại xây dựng, bình đẳng nhằm phản bác, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền", can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.”
Liên quan đến các tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Hoa và các nước trong khu vực ở Biển Đông, Trọng nói rằng : “ Ngành ngoại giao có trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai đàm phán để tìm kiếm giải pháp cho những tranh chấp trong khuôn khổ song phương trên vấn đề liên quan chỉ tới hai nước, và đa phương trên những vấn đề liên quan tới nhiều nước, nhiều bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), đồng thời cùng các nước hữu quan sớm soạn thảo Bản Quy tắc ứng xử (COC).
Thật ra điều Trọng nói không có gì mới, nhưng được đưa ra trước ngày Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam có ý nghĩa như xác định lại rằng cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa phải được giải quyết theo Luật pháp Quốc tế và những gì Trung Hoa đã cam kết khi ký DOC (Declaration Of Conduct) tại Nam Vang (Cao Miên) năm 2002.
Trung Hoa là nước vi phạm nghiêm trọng DOC và tìm mọi cách không chịu thảo luận với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of South East Asia Nations, ASEAN) để hòan thành Bản Quy tắc ứng xử (Code Of Conduct, COC), có tính cách pháp lý ràng buộc các bên liên quan.
Ngòai ra Trọng cũng nhắc cán bộ ngọai giao phải : “ Tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành và địa phương liên quan tiếp tục thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Quan tâm đầy đủ hơn công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở các nước trong bối cảnh số lượng ngày càng đông, địa bàn ngày càng rộng, vấn đề phức tạp nảy sinh ngày càng nhiều.”
Nghị quyết 36 ra đời năm 2004, nhưng Nhà nước CSVN đã hòan tòan thất bại trong chính sách chiêu dụ Trí thức về giúp nước. Các thương gia Việt Nam về nước bỏ tiền đầu tư chỉ đếm trên đầu ngón tay và không sao tổ chức nổi các hội đòan để tạo sức mạnh cho đảng CSVN trong các Cộng đồng người Việt ở nước ngòai.
Các nỗ lực tuyên truyền bằng sách báo , truyền thanh, truyền hình cũng bị lu mờ trước làn sóng báo, đài của người Việt lưu vong ở khắp nơi.
Ngòai ra, Trọng còn yêu cầu cán bộ Ngọai giao hãy: “Cùng với các ngành hữu quan làm tốt hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, góp phần nâng cao giá trị Việt Nam trong con mắt bạn bè và nhân dân thế giới. Thông qua các phương tiện và hình thức thông tin, tuyên truyền, làm cho thế giới hiểu biết đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.”
Làm sao mà Ban Tuyên giáo của đảng có thể làm được khi mà các cuộc đàn áp người dân yêu nước biểu tình chống Tầu âm mưu xâm lược bị đàn áp dã man trước mắt người ngọai quốc ở Sài Gòn và Hà Nội trong hai tháng 8 và 9 (2011).
Bộ mặt Việt Nam trên thế giới cũng đã rất trơ trẽn khi lên tiếng phủ nhận không đán áp tôn giáo, bắt giam những người muốn thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội và biều tình như Hiến pháp đã quy định.
Sự thiếu lương thiện của guống mày tuyên truyền của nhà nước CSVN đã bị nhân dân thế giới yêu chuộng tự do, dân chủ lột mặt nạ từ nhiều năm qua. Vậy mà, trong lời phát biểu ngày 12/12 (2011) của Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngọai giao 27 vẫn còn mang nặng “tính công an nghi ngờ do thám”, khi ra lệnh cho cán bộ ngọai giao phải : “Cảnh giác trước những mặt trái của kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, trước những cám dỗ của tiền tài, lợi ích vật chất và những mưu toan, cạm bẫy của các thế lực xấu.”
Hay phải : “Tránh phiến diện, cực đoan, nhấn mạnh một chiều hoặc từ cực này nhẩy sang cực khác.”
Vậy chính sách ngọai giao được gọi là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” có còn giá trị gì không, hay đó là điều dối trá ? -/-
Phạm Trần
(12/011)
Trọng đưa ra lập trường này tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 27 tổ chức tại Hà Nội ngảy 12-12 (2011), 8 ngày trước khi Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình thăm chính thức Việt Nam từ ngày 20 – 22/12 (2011).
Tập Cận Bình, sinh năm 1953 còn là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, đứng hàng thứ nhì trong hàng ngũ lãnh đạo Trung Cộng và là người sẽ thay Hồ Cẩm Đào lãnh đạo đất nước trên 1 tỷ người vào năm 2013.
Bản tin của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết họ Tập thăm Việt Nam do lời mời của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan.
Nhưng đây là chuyến đi Việt Nam đầu tiên của một Lãnh đạo cao cấp nhất Trung Hoa kể từ khi Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Việt Nam công khai xác nhận chủ quyền bất dịch của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Hoa dùng võ lực chiếm mất năm 1974, khi ấy thuộc quyền kiểm soát của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa ờ miền Nam Việt Nam.
Dũng cũng xác định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, nơi Trung Cộng đã chiếm 7 đảo đá ngầm từ năm 1988.
Hiện nay theo lời Dũng, Việt Nam kiểm soát 21 đảo ờ Trường Sa và “còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của VN ở vùng biển này”.
Ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn tranh chấp chủ quyền với Đài Loan chiếm 1 đảo nổi và Phi Luật Tân chiếm 5 đảo. Mã Lai Á và Brunei cũng đòi chủ quyền trên vùng biển nhưng không giữ đảo nào.
Tại Phiên họp của Quốc Hội ngày 25/11 (2011), Dũng tuyên bố : “Việt Nam khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỷ 17, chúng ta làm chủ khi hai quần đảo này chưa có bất kỳ một quốc gia nào….”
“…Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của chúng ta phù hợp Hiến chương LHQ, Công ước luật biển, Tuyên bố DOC (Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông, Decraration Of Conduct)…”
“…Chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa như thế nào? Tôi muốn nói rõ chủ trương nghiêm túc thực hiện Công ước Luật Biển, Tuyên bố DOC và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Các Nguyên tắc mà Dũng đề cập đến gồm có 6 điểm ký kết giữa Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư và Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch nước Trung Hoa ngày 11/10 (2011) tại Bắc Kinh, trong đó có vấn đề “hợp tác cùng phát triển” trên các vùng biển tranh chấp giữa 2 nước đã bị dư luận trong và ngòai nước lên án Trọng nhượng bộ đòi hỏi phi pháp của Hồ Cẩm Đào, vì đó là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông.
Hai điều quan trọng này viết nguyên văn như sau :
4. “Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
5. “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Như vậy, chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình từ 20 đến 22/12 (2011) không nên coi là mấy ngày viếng thăm xã giao bình thường mà chắc chắn có gắn với lời tuyên bố về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Nguyễn Tấn Dũng.
TRỌNG NÓI GÌ ?
Nhưng liệu chuyến thăm Việt Nam của Tập Cận Bình có liên quan đến lời tuyên bố “đón đầu” của Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội ngày 12/12 (2011) không ?
Tại Hội nghị Ngoại giao lần 27 có mặt tất cả các Đại sứ và Tham tán Ngọai giao ở nước ngoài, đề tài : “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng” đã được thảo luận.
Trọng đã nói với đội ngũ “tai mắt” của đảng ở nước ngoài lần đầu tiên kề từ khi lên chức Tổng Bí thư đảng tháng 1/2011 rằng : “ Hội nghị của chúng ta họp vào một thời điểm khá đặc biệt. Năm 2011 vừa tròn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), 25 năm nhân dân ta tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về đối nội và đối ngoại.”
Vậy thành tựu đối ngọai trong ¼ Thế kỷ qua đã đem lại những kết qủa gì ?
Thành qủa lớn nhất của thập niên 80, theo lời Trọng là Việt Nam : “ Đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế đối với nước ta, đồng thời mở rộng quan hệ với các quốc gia, kể cả các cường quốc và các trung tâm hàng đầu thế giới.”
Thật ra Việt Nam đã buộc phải “Đồi mới hay là chết”, theo lời Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Khoá VII, sau 10 năm mê muội áp đặt đường lối kinh tế chỉ huy, tập trung bao cấp theo kiểu Liên Sô đã làm cho dân chúng đói nghèo, kinh tế kiệt quệ.
Sau khi Việt Nam để cho dân tự do làm ăn và mở cửa mời tư bản ngọai quốc vào buôn bán , cộng đồng thế giới đã đáp lại lời mời của Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư đảng VI nên Việt Nam đã hết đói.
Áp lực cấm vận và cô lập Việt Nam của Quốc tế cũng được gỡ bỏ sau khi Việt Nam, do áp lực nếu muốn tái lập bang giao của Tầu, đã rút quân khỏi Cao Miên sau 10 năm xâm chiếm nước này.
Báo cáo chính thức cho biết Việt Nam có 15 ngàn binh sỹ thiệt mạng và trên 30 ngàn người khác bị thương. Quân Miên Khmer đỏ cũng thiệt hại tương tự. Nhưng số thương vong thật của đôi bên sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy vì bên nào cũng dấu kín.
Vì vậy nếu Trọng bảo Việt Nam “đã đẩy lùi được chính sách cô lập về chính trị, bao vây về kinh tế “ của Thế giới, đứng đầu bởi Hoa Kỳ là nói khống.
Trong diễn văn ngọai giao quan trọng này, Trọng cũng đã nhiều lần lập lại đường lối ngọai giao của Việt Nam đã quyết định tại Đại hội đảng XI tháng 1/2011 là :“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghãi giàu mạnh.”
Tuy nhiên Trọng cũng thận trọng khi nói đến ảnh hưởng của Cuộc cách mạng hoa nhài ở Bắc Phi và Trung Đông từ hồi đầu năm 2011 và hiện còn tiếp diễn ở Syria rằng : “Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Những chuyển biến rộng lớn, sâu sắc về kinh tế chính trị đang tác động, làm ảnh hưởng, thậm chí làm thay đổi diện mạo của hế giới và quan hệ giữa các quốc gia. Ở nhiều khu vực đang diễn ra những xung đột xã hội nghiêm trọng mà nổi lên trong thời gian gần đây là những rung động ở Bắc Phi, Trung Cận Đông; các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, sự can thiệp thô bạo từ bên ngoài; nạn khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, kể cả trên biển, chạy đua vũ trang, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, thảm họa thiên nhiên diễn ra gay gắt, phức tạp làm cho thế giới trở nên bất an hơn.”
Do đó, Trọng yêu cầu : “ Ngành ngoại giao cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành hữu quan, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhân dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế; đồng thời tăng cường đấu tranh dư luận, đấu tranh pháp lý bằng những luận cứ sắc bén cũng như thông qua đối thoại xây dựng, bình đẳng nhằm phản bác, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền", can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.”
Liên quan đến các tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Hoa và các nước trong khu vực ở Biển Đông, Trọng nói rằng : “ Ngành ngoại giao có trách nhiệm chủ yếu trong việc triển khai đàm phán để tìm kiếm giải pháp cho những tranh chấp trong khuôn khổ song phương trên vấn đề liên quan chỉ tới hai nước, và đa phương trên những vấn đề liên quan tới nhiều nước, nhiều bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), đồng thời cùng các nước hữu quan sớm soạn thảo Bản Quy tắc ứng xử (COC).
Thật ra điều Trọng nói không có gì mới, nhưng được đưa ra trước ngày Tập Cận Bình đến thăm Việt Nam có ý nghĩa như xác định lại rằng cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa phải được giải quyết theo Luật pháp Quốc tế và những gì Trung Hoa đã cam kết khi ký DOC (Declaration Of Conduct) tại Nam Vang (Cao Miên) năm 2002.
Trung Hoa là nước vi phạm nghiêm trọng DOC và tìm mọi cách không chịu thảo luận với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of South East Asia Nations, ASEAN) để hòan thành Bản Quy tắc ứng xử (Code Of Conduct, COC), có tính cách pháp lý ràng buộc các bên liên quan.
Ngòai ra Trọng cũng nhắc cán bộ ngọai giao phải : “ Tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành và địa phương liên quan tiếp tục thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Quan tâm đầy đủ hơn công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở các nước trong bối cảnh số lượng ngày càng đông, địa bàn ngày càng rộng, vấn đề phức tạp nảy sinh ngày càng nhiều.”
Nghị quyết 36 ra đời năm 2004, nhưng Nhà nước CSVN đã hòan tòan thất bại trong chính sách chiêu dụ Trí thức về giúp nước. Các thương gia Việt Nam về nước bỏ tiền đầu tư chỉ đếm trên đầu ngón tay và không sao tổ chức nổi các hội đòan để tạo sức mạnh cho đảng CSVN trong các Cộng đồng người Việt ở nước ngòai.
Các nỗ lực tuyên truyền bằng sách báo , truyền thanh, truyền hình cũng bị lu mờ trước làn sóng báo, đài của người Việt lưu vong ở khắp nơi.
Ngòai ra, Trọng còn yêu cầu cán bộ Ngọai giao hãy: “Cùng với các ngành hữu quan làm tốt hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, góp phần nâng cao giá trị Việt Nam trong con mắt bạn bè và nhân dân thế giới. Thông qua các phương tiện và hình thức thông tin, tuyên truyền, làm cho thế giới hiểu biết đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.”
Làm sao mà Ban Tuyên giáo của đảng có thể làm được khi mà các cuộc đàn áp người dân yêu nước biểu tình chống Tầu âm mưu xâm lược bị đàn áp dã man trước mắt người ngọai quốc ở Sài Gòn và Hà Nội trong hai tháng 8 và 9 (2011).
Bộ mặt Việt Nam trên thế giới cũng đã rất trơ trẽn khi lên tiếng phủ nhận không đán áp tôn giáo, bắt giam những người muốn thực hiện quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội và biều tình như Hiến pháp đã quy định.
Sự thiếu lương thiện của guống mày tuyên truyền của nhà nước CSVN đã bị nhân dân thế giới yêu chuộng tự do, dân chủ lột mặt nạ từ nhiều năm qua. Vậy mà, trong lời phát biểu ngày 12/12 (2011) của Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngọai giao 27 vẫn còn mang nặng “tính công an nghi ngờ do thám”, khi ra lệnh cho cán bộ ngọai giao phải : “Cảnh giác trước những mặt trái của kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, trước những cám dỗ của tiền tài, lợi ích vật chất và những mưu toan, cạm bẫy của các thế lực xấu.”
Hay phải : “Tránh phiến diện, cực đoan, nhấn mạnh một chiều hoặc từ cực này nhẩy sang cực khác.”
Vậy chính sách ngọai giao được gọi là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” có còn giá trị gì không, hay đó là điều dối trá ? -/-
Phạm Trần
(12/011)
Web page Updated ngày 21/12/2011
Trung Quốc phản công ngoại giao : Phó Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Việt Nam
Tác Giả: Trọng Nghĩa
Chuyến công du này nhằm khôi phục lại uy tín và ảnh hưởng của Trung Quốc
Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ( Reuters )
Vào hôm nay, 20/12/2011, ông Tập Cận Bình - nhân vật được xem là sắp lên nắm quyền lãnh đạo tối cao tại Trung Quốc – đã đến Hà Nội trong chuyến thăm sẽ kéo dài cho đến ngày 22/12.
Diễn ra trong bối cảnh hình ảnh của Bắc Kinh trong khu vực trong thời gian qua bị sứt mẻ nghiêm trọng do các hành động lấn lướt nhằm áp đặt chủ quyền trên Biển Đông, chuyến công du này được giới phân tích cho là nhằm khôi phục lại uy tín và ảnh hưởng của Trung Quốc.
Ý nghĩa này đã bộc lộ rõ qua tuyên bố vào chiều hôm qua (19/12) của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân, theo đó Bắc Kinh hy vọng rằng với chuyến thăm của ông Tập Cận Bình lần này : “Hai bên sẽ tiến thêm một bước trong việc củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị, tăng cường lòng tin chiến lược, đẩy mạnh hợp tác thực chất, thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển hướng về phía trước”.
Theo báo chí chính thức tại Việt Nam, nhân chuyến công du của ông Tập Cận Bình, lãnh đạo hai nước sẽ xem xét và ký kết một số văn kiện hợp tác giữa hai quốc gia.
Dù về mặt chính thức, không thấy hai bên nói về vấn đề Biển Đông, nhưng theo các chuyên gia phân tích, đây sẽ là một hồ sơ quan trọng trong các cuộc thảo luận của Phó Chủ tịch Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam, nhất là vào lúc mà một loạt hành động thiếu hữu hảo của Bắc Kinh trên hồ sơ Biển Đông đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hoa Kỳ trong chiến lược củng cố trở lại vị thế của Mỹ trong khu vực, tranh thủ thêm được cảm tình của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn của RFI, Giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng, trường Đại học George Mason, Virginia, Hoa Kỳ đã lồng chuyến công du Việt Nam của Phó Chủ tịch Trung Quốc trong khuôn khổ một cuộc phản công ngoại giao của Bắc Kinh nhắm đối phó với các bước tiến của Washington trở lại vùng Châu Á trong thời gian gần đây.
Về ý nghĩa chuyến thăm, Giáo sư Hùng phân tích :
"Ông Tập Cận Bình sang năm sẽ thay thế ông Hồ Cẩm Đào làm chủ tịch nước, đồng thời làm tổng bí thư đảng Cộng sản. Đây là dịp trắc nghiệm. Thứ nhất là để ông ấy có tiếng. Thứ hai là thử thách khả năng của ông ấy. Người ta thường nói như vậy.
Nhưng tôi thấy có các điểm khác nữa. Thứ nhất là gần đây, có một loạt động thái của Mỹ, chứng tỏ Hoa Kỳ trở lại Biển Đông và các quốc gia khác đã nồng ấm với họ hơn. Ngay cả việc bà Clinton đi Miến Điện, rồi tới thăm bà Aung San Suu Kyi. Chúng ta thấy Mỹ đã có những động thái như vậy.
Các quốc gia châu Á, Đông Nam cũng gần với Mỹ hơn, chống đối lại thái độ hung hăng của Trung Quốc. Cho nên, Trung Quốc phải "counter", đáp ứng lại.
Do đó, chúng ta thấy ông Tập Cận Bình sang Việt Nam, rồi sang Thái Lan, trong khi ông Đới Bỉnh Quốc thì sang Miến Điện, đặc biệt lần này là lại còn đi thăm cả bà Aung San Suu Kyi nữa. Ngày xưa, họ thường thường tránh những chuyện đó và họ đi thẳng với chính phủ, chứ không quan hệ với đối lập. Đó là những điểm mà Trung Quốc tìm cách đáp ứng lại thái độ của Mỹ và các quốc gia Đông Nam Á.
Còn một điểm khác liên quan đến vấn đề thủ tục. Khi Việt Nam tổ chức xong Đại hội Đảng thì có cử một ủy viên Bộ Chính trị sang bên đó và cũng gửi lời của ông tổng bí thư, ông chủ tịch nước, mời lãnh tụ Trung Quốc sang.
Sau khi ông (Nguyễn Phú) Trọng sang, bây giờ họ đáp lễ. Nhưng ông Trọng lại không phải chủ tịch nước, cho nên họ cử một ông phó chủ tịch nước sang, theo lời mời của một phó chủ tịch nước Việt Nam, bà (Nguyễn Thị) Doan. Nhưng ông này cũng nói là đại diện luôn cho cả Trung ương Đảng Trung Quốc, để đáp lại lời mời của Trung ương Đảng Việt Nam. Do vậy, về mặt thủ tục ngoại giao, họ cử ông Tập Cận Bình sang."
Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc chắc chắn có một vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự.
"Vấn đề Biển Đông chắc chắn là phải đề cập đến. Bởi vì khi ông (Nguyễn Chí) Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam sang dự hội nghị chiến lược hai bên ở cấp thứ trưởng giữa hai nước, thì ông ấy nói là hai nước phải đặt vấn đề quan hệ tốt với nhau, nhưng các khó khăn cũng cần phải được nói ra, nhất là vấn đề Biển Đông. Ông Vịnh cũng nói rõ là vấn đề Biển Đông, tuy hai nước là đồng chí, cùng lý tưởng, nhưng cũng chú ý tới những quyền lợi của từng quốc gia, nhất là việc bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ.
Vấn đề đã đặt ra từ đó rồi, chắc chắn là vấn đề Biển Đông sẽ được nêu ra, nhất là gần đây, chúng ta thấy Trung Quốc chống lại việc công ty Ấn Độ khai thác ở trong vùng 200 hải lý của Việt Nam. Nếu Trung Quốc muốn ve vãn Việt Nam thì vấn đề này không thể nào không được đặt ra."
Sau Việt Nam, theo chương trình dự kiến, Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ tiếp tục vòng công du Đông Nam Á, và ghé thăm Thái Lan cho đến ngày 24/12. Theo nhật báo Thái Lan The Nation, ngay ngày đầu tiên của chuyến thăm, hai bên sẽ ký kết một hiệp định hoán đổi tiền tệ trị giá 7 tỷ nhân dân tệ nhằm thúc đẩy thương mại song phương.
Theo The Nation, giới chuyên gia coi đấy là một cố gắng của Bắc Kinh nhằm cải thiện quan hệ với các nước láng giềng vào lúc Washington càng lúc càng cụ thể hóa chiến lược lược hướng tới châu Á
Diễn ra trong bối cảnh hình ảnh của Bắc Kinh trong khu vực trong thời gian qua bị sứt mẻ nghiêm trọng do các hành động lấn lướt nhằm áp đặt chủ quyền trên Biển Đông, chuyến công du này được giới phân tích cho là nhằm khôi phục lại uy tín và ảnh hưởng của Trung Quốc.
Ý nghĩa này đã bộc lộ rõ qua tuyên bố vào chiều hôm qua (19/12) của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Vi Dân, theo đó Bắc Kinh hy vọng rằng với chuyến thăm của ông Tập Cận Bình lần này : “Hai bên sẽ tiến thêm một bước trong việc củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị, tăng cường lòng tin chiến lược, đẩy mạnh hợp tác thực chất, thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Trung-Việt phát triển hướng về phía trước”.
Theo báo chí chính thức tại Việt Nam, nhân chuyến công du của ông Tập Cận Bình, lãnh đạo hai nước sẽ xem xét và ký kết một số văn kiện hợp tác giữa hai quốc gia.
Dù về mặt chính thức, không thấy hai bên nói về vấn đề Biển Đông, nhưng theo các chuyên gia phân tích, đây sẽ là một hồ sơ quan trọng trong các cuộc thảo luận của Phó Chủ tịch Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam, nhất là vào lúc mà một loạt hành động thiếu hữu hảo của Bắc Kinh trên hồ sơ Biển Đông đã tạo điều kiện thuận lợi cho Hoa Kỳ trong chiến lược củng cố trở lại vị thế của Mỹ trong khu vực, tranh thủ thêm được cảm tình của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn của RFI, Giáo sư chính trị học Nguyễn Mạnh Hùng, trường Đại học George Mason, Virginia, Hoa Kỳ đã lồng chuyến công du Việt Nam của Phó Chủ tịch Trung Quốc trong khuôn khổ một cuộc phản công ngoại giao của Bắc Kinh nhắm đối phó với các bước tiến của Washington trở lại vùng Châu Á trong thời gian gần đây.
Về ý nghĩa chuyến thăm, Giáo sư Hùng phân tích :
"Ông Tập Cận Bình sang năm sẽ thay thế ông Hồ Cẩm Đào làm chủ tịch nước, đồng thời làm tổng bí thư đảng Cộng sản. Đây là dịp trắc nghiệm. Thứ nhất là để ông ấy có tiếng. Thứ hai là thử thách khả năng của ông ấy. Người ta thường nói như vậy.
Nhưng tôi thấy có các điểm khác nữa. Thứ nhất là gần đây, có một loạt động thái của Mỹ, chứng tỏ Hoa Kỳ trở lại Biển Đông và các quốc gia khác đã nồng ấm với họ hơn. Ngay cả việc bà Clinton đi Miến Điện, rồi tới thăm bà Aung San Suu Kyi. Chúng ta thấy Mỹ đã có những động thái như vậy.
Các quốc gia châu Á, Đông Nam cũng gần với Mỹ hơn, chống đối lại thái độ hung hăng của Trung Quốc. Cho nên, Trung Quốc phải "counter", đáp ứng lại.
Do đó, chúng ta thấy ông Tập Cận Bình sang Việt Nam, rồi sang Thái Lan, trong khi ông Đới Bỉnh Quốc thì sang Miến Điện, đặc biệt lần này là lại còn đi thăm cả bà Aung San Suu Kyi nữa. Ngày xưa, họ thường thường tránh những chuyện đó và họ đi thẳng với chính phủ, chứ không quan hệ với đối lập. Đó là những điểm mà Trung Quốc tìm cách đáp ứng lại thái độ của Mỹ và các quốc gia Đông Nam Á.
Còn một điểm khác liên quan đến vấn đề thủ tục. Khi Việt Nam tổ chức xong Đại hội Đảng thì có cử một ủy viên Bộ Chính trị sang bên đó và cũng gửi lời của ông tổng bí thư, ông chủ tịch nước, mời lãnh tụ Trung Quốc sang.
Sau khi ông (Nguyễn Phú) Trọng sang, bây giờ họ đáp lễ. Nhưng ông Trọng lại không phải chủ tịch nước, cho nên họ cử một ông phó chủ tịch nước sang, theo lời mời của một phó chủ tịch nước Việt Nam, bà (Nguyễn Thị) Doan. Nhưng ông này cũng nói là đại diện luôn cho cả Trung ương Đảng Trung Quốc, để đáp lại lời mời của Trung ương Đảng Việt Nam. Do vậy, về mặt thủ tục ngoại giao, họ cử ông Tập Cận Bình sang."
Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc chắc chắn có một vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự.
"Vấn đề Biển Đông chắc chắn là phải đề cập đến. Bởi vì khi ông (Nguyễn Chí) Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam sang dự hội nghị chiến lược hai bên ở cấp thứ trưởng giữa hai nước, thì ông ấy nói là hai nước phải đặt vấn đề quan hệ tốt với nhau, nhưng các khó khăn cũng cần phải được nói ra, nhất là vấn đề Biển Đông. Ông Vịnh cũng nói rõ là vấn đề Biển Đông, tuy hai nước là đồng chí, cùng lý tưởng, nhưng cũng chú ý tới những quyền lợi của từng quốc gia, nhất là việc bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ.
Vấn đề đã đặt ra từ đó rồi, chắc chắn là vấn đề Biển Đông sẽ được nêu ra, nhất là gần đây, chúng ta thấy Trung Quốc chống lại việc công ty Ấn Độ khai thác ở trong vùng 200 hải lý của Việt Nam. Nếu Trung Quốc muốn ve vãn Việt Nam thì vấn đề này không thể nào không được đặt ra."
Sau Việt Nam, theo chương trình dự kiến, Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ tiếp tục vòng công du Đông Nam Á, và ghé thăm Thái Lan cho đến ngày 24/12. Theo nhật báo Thái Lan The Nation, ngay ngày đầu tiên của chuyến thăm, hai bên sẽ ký kết một hiệp định hoán đổi tiền tệ trị giá 7 tỷ nhân dân tệ nhằm thúc đẩy thương mại song phương.
Theo The Nation, giới chuyên gia coi đấy là một cố gắng của Bắc Kinh nhằm cải thiện quan hệ với các nước láng giềng vào lúc Washington càng lúc càng cụ thể hóa chiến lược lược hướng tới châu Á
Web page Updated ngày 21/12/2011